Chuyên mục lưu trữ: Hán ngữ 6

Hán 6_Bài 20 _ 什么最重要

什么最重要 Cái gì quan trọng nhất
彭艺云是在英国留学的中国学生。
Péngyìyún shì zài yīngguó liúxué de zhōngguó xuéshēng.
Bành Nghệ Vân là du học sinh người Trung du học tại Anh Quốc.
一天,她去牛津大学面试,穿得很朴素,也没戴什么首饰。
Yītiān, tā qù niújīn dàxué miànshì, chuān dé hěn púsù, yě méi dài shénme shǒushì.
Có một hôm, cô ấy đến trường đại học Oxford phỏng vấn, ăn mặc rất mộc mạc, cũng không đeo bất cứ trang sức gì.
朋友劝她说:
“去考牛津这所世界上最 有名的贵族大学,而且还要接受世界著名的阿加尔教授的面试,你这副样子怎么能给人家良好的第一印象呢?”
Péngyǒu quàn tā shuō:
“Qù kǎo niújīn zhè suǒ shìjiè shàng zuì yǒumíng de guìzú dàxué, érqiě hái yào jiēshòu shìjiè zhùmíng de ā jiā’ěr jiàoshòu de miànshì, nǐ zhè fù yàngzi zěnme néng gěi rénjiā liánghǎo de dì yī yìnxiàng ne?”
Bạn bè khuyên cô ấy rằng:
“đi thi trường Oxford đại học quý tộc nổi tiếng nhất thế giới này, mà còn phải tiếp nhận sự phỏng vấn của giáo sư Archer nổi tiếng thế giới, bộ dạng này của bạn làm sao có thể để lại ấn tượng đầu tiên tốt cho người ta chứ.
“我本来也不是什么贵族,何必要装出贵族的样子呢?
“Wǒ běnlái yě bùshì shénme guìzú, hébì yào zhuāng chū guìzú de yàngzi ne?
“Tôi vốn dĩ cũng chẳng phải quý tộc gì, hà tất phải giả dạng quý tộc chứ?
再说,考得上考不上,凭的是知识和才能,不是衣服。”
Zàishuō, kǎo dé shàng kǎo bù shàng, píng de shì zhīshì hé cáinéng, bùshì yīfú.”
Hơn nữa, có thi được hay không, những thứ mà dựa vào là kiến thức và tài năng, không phải quần áo.”
她的自信使朋友觉得很有道理。
Tā de zìxìn shǐ péngyǒu juédé hěn yǒu dàolǐ.
Sự tự tin của của cô ấy khiến bạn bè cảm thấy rất có lý.
然而,让人吃惊的是,面试时她竟然跟阿加尔教授争论了起来,教授很生气。
Rán’ér, ràng rén chījīng de shì, miànshì shí tā jìngrán gēn ā jiā’ěr jiàoshòu zhēnglùnle qǐlái, jiàoshòu hěn shēngqì.
Thế nhưng, điều khiến cho người ta ngạc nhiên đó là, lúc phỏng vấn không ngờ cô ấy lại tranh luận với giáo sư Archer, giáo sư rất bực mình.
“你以为你可以说服我吗? ”
教授大声地说。
“Nǐ yǐwéi nǐ kěyǐ shuōfú wǒ ma? ” Jiàoshòu dàshēng de shuō.
“Cô cho rằng cô có thể thuyết phục tôi hay sao?”
giáo sư lớn tiếng nói.
“当然不一定,因为我还没出生时,您已经是心理医生了。”
彭艺云毫不示弱地回答,
“Dāngrán bù yīdìng, yīnwèi wǒ hái méi chūshēng shí, nín yǐjīng shì xīnlǐ yīshēngle.”
Péngyìyún háo bù shìruò de huídá,
“Điều này chưa chắc, bởi vì lúc em chưa chào đời, thì thầy đã là bác sĩ tâm lý rồi.”
Bành Nghệ Vân trả lời một cách không hề yếu đuối.
“但是实验可以。
不过要是没有人做这些实验,那就永远也不会有人知道您和我谁对谁错了。”
“Dànshì shíyàn kěyǐ.
Bùguò yàoshi méiyǒurén zuò zhèxiē shíyàn, nà jiù yǒngyuǎn yě bù huì yǒu rén zhīdào nín hé wǒ shéi duì shéi cuòle.”
“Nhưng thực nghiệm thì có thể.
Nhưng nếu không có ai làm những thực nghiệm này, thế thì sẽ mãi mãi không có ai biết được giữa thầy và con ai đúng ai sai.”
“这就是你的实验方案吗?
我马上可以指出它的好几个错误。”
“Zhè jiùshì nǐ de shíyàn fāng’àn ma?
Wǒ mǎshàng kěyǐ zhǐchū tā de hǎojǐ gè cuòwù.”
“Đây chính là phương án thực nghiệm của cô hay sao?  
Tôi ngay lập tức có thể chỉ ra những điểm sai của nó.”
“这只能说明实验方案还不成熟。
要是您收我当您的学生,自然可以把它改得更好。”
“Zhè zhǐ néng shuōmíng shíyàn fāng’àn hái bù chéngshú.
Yàoshi nín shōu wǒ dāng nín de xuéshēng, zìrán kěyǐ bǎ tā gǎi dé gèng hǎo.”
“Điều này chỉ có thể chứng tỏ phương án thực nghiệm vẫn chưa thành thục.
Nếu như thầy nhận em làm học sinh của thầy, tự nhiên sẽ sửa đổi nó một cách tốt hơn.”
“你想让我指导一个反对我的研究生吗?”
“Nǐ xiǎng ràng wǒ zhǐdǎo yīgè fǎnduì wǒ de yánjiūshēng ma?”
“Cô muốn để tôi chỉ đạo một nghiên cứu sinh phản đối tôi hay sao?”
“是的,我是这样想的。”
她笑了笑,
“Shì de, wǒ shì zhèyàng xiǎng de.” Tā xiàole xiào,
“Vâng ạ, em nghĩ như vậy.”
Cô ấy cười cười một cái.
“可是跟您争过以后,我知道牛津大学是不可能录取我了。”
“Kěshì gēn nín zhēngguò yǐhòu, wǒ zhīdào niújīn dàxué shì bù kěnéng lùqǔ wǒle.”
Nhưng mà sau khi tranh luận với thầy, em biết trường đại học Oxford này không thể thu nhận em được nữa.”
“你为什么选择‘行为治疗’这门课程?
又为什么选择我作你的导师呢?”
“Nǐ wèishéme xuǎnzé ‘xíngwéi zhìliáo’ zhè mén kèchéng?
Yòu wèishénme xuǎnzé wǒ zuò nǐ de dǎoshī ne?”
“Sao cô lại chọn môn ‘hành vi trị liệu này’?
Sao lại chọn tôi làm thầy của cô.
“您在书里曾写道过:
‘行为治疗的目的,是使那些心灵痛苦的人能够回到正常生活中去,从而享受正常人都拥有的幸福和权利。’
“Nín zài shū lǐ céng xiě dàoguò:
‘Xíngwéi zhìliáo de mùdì, shì shǐ nàxiē xīnlíng tòngkǔ de rén nénggòu huí dào zhèngcháng shēnghuó zhōng qù, cóng’ér xiǎngshòu zhèngcháng rén dōu yǒngyǒu de xìngfú hé quánlì.’
“Thầy đã từng viết ở trong sách rằng: ‘Mục đích của hành vi trị liệu là khiến cho những người tâm hồn đau khổ có thể trở lại cuộc sống bình thường, từ đó hưởng thụ cái quyền lợi và hạnh phúc của người bình thường đều có ’.
老实说,您书里的理论我并不都赞成,可我同意这句话。
Lǎoshí shuō, nín shū lǐ de lǐlùn wǒ bìng bù dōu zànchéng, kě wǒ tóngyì zhè jù huà.
Thú thật, những lý thuyết trong sách của thầy còn không hoàn toàn tán thành, nhưng con đồng ý câu nói này của thầy.
我想我们的分歧只是怎样才能做得更好些,怎样才能更好地治疗病人。”
Wǒ xiǎng wǒmen de fēnqí zhǐshì zěnyàng cáinéng zuò dé gèng hǎoxiē, zěnyàng cáinéng gèng hǎo de zhìliáo bìngrén.”
Em nghĩ cái mâu thuẫn của chúng ta chỉ là làm thế nào để làm được tốt hơn, làm thế nào mới có thể chữa trị bệnh nhân một cách tốt hơn.
“谢谢你,彭小姐,你可以走了。”
“Xièxiè nǐ, péng xiǎojiě, nǐ kěyǐ zǒule.”
“Cảm ơn cô, Bành tiểu thư, cô có thể đi rồi.”
“谢谢您,阿加尔教授,再见!”
“Xièxiè nín, ā jiā’ěr jiàoshòu, zàijiàn!”
“Cảm ơn thầy, giáo sư Archer, em chào thầy!”
彭艺云非常希望做阿加尔教授的研究生。
Péngyìyún fēicháng xīwàng zuò ā jiā’ěr jiàoshòu de yánjiūshēng.
Bành Nghệ Vân rất mong được làm nghiên cứu sinh của giáo sư Archer.
因为阿加尔不仅是国际著名的心理学教授,而且他的研究生都有奖学金。
Yīnwèi ā jiā’ěr bùjǐn shì guójì zhùmíng de xīnlǐ xué jiàoshòu, érqiě tā de yánjiūshēng dōu yǒu jiǎngxuéjīn.
Bời vì Archer không chỉ là giáo sư tâm lý học nổi tiếng quốc tế, hơn nữa nghiên cứu sinh của ông ấy đều có học bổng.
彭艺云付不起几千英镑的学费,必须争取得到奖学金,不然她就没办法再继续学下去了。
Péngyìyún fù bù qǐ jǐ qiān yīngbàng de xuéfèi, bìxū zhēngqǔ dédào jiǎngxuéjīn, bùrán tā jiù méi bànfǎ zài jìxù xué xiàqùle.
Bành Nghệ Vân không chi nổi học phí mấy nghìn bảng Anh, nhất định phải cố gắng dành được học bổng, nếu không thì cô ấy không còn cách nào tiếp tục học tiếp nữa.
不过阿加尔对学生的要求很严格,总是挑了又挑,选了又选,四五年才收一两名。
Bùguò ā jiā’ěr duì xuéshēng de yāoqiú hěn yángé, zǒng shì tiāole yòu tiāo, xuǎnle yòu xuǎn, sìwǔ nián cái shōu yī liǎng míng.
Nhưng giáo sư Archer đòi hỏi rất nghiêm khắc với học sinh, luôn là chọn đi chọn lại, lựa rồi lại lựa, bốn đến năm năm mới nhận vài học sinh.
朋友为她担心,批评她不该跟教授争论,
“既然奖学金对你那么重要,你又明明知道阿加尔教授非常严格,为什么还要跟他争论呢?”
Péngyǒu wèi tā dānxīn, pīpíng tā bù gāi gēn jiàoshòu zhēnglùn,
“jìrán jiǎngxuéjīn duì nǐ nàme zhòngyào, nǐ yòu míngmíng zhīdào ā jiā’ěr jiàoshòu fēicháng yángé, wèishéme hái yào gēn tā zhēnglùn ne?”
Bạn bè thì lo cho cô ấy, phê bình cô ấy không nên tranh luận với giáo sư,
“Học bổng nếu đã quan trọng như vậy đối với bạn, bạn lại biết rõ giáo sư Archer vô cùng nghiêm khắc, sao lại còn tranh luận với ông ấy chứ?”
她笑了笑说:
“如果你不爱一个姑娘,你能为了钱而说爱她吗?”
Tā xiàole xiào shuō:
“Rúguǒ nǐ bù ài yīgè gūniáng, nǐ néng wéi le qián ér shuō ài tā ma?”
Cô ấy cười cười một cái nói:
“Nếu bạn không yêu một cô gái, thì bạn có thể vì tiền mà nói lời yêu cô ấy không?
“那当然很难!”
朋友承认说,
“Nà dāngrán hěn nán!”
Péngyǒu chéngrèn shuō,
“Điều đó đương nhiên là rất khó!”
người bạn thừa nhận nói,
“可你……”
“Kě nǐ……”
“Nhưng bạn….”
“那么在科学上,违心地赞成自己认为错误的理论,那就更难。
“Nàme zài kēxué shàng, wéixīn de zànchéng zìjǐ rènwéi cuòwù de lǐlùn, nà jiù gèng nán.
“Vậy thì về mặt khoa học, trái lòng tán thành một cái lý luận mình cho là sai, vậy thì càng khó hơn.
假如你在爱情上欺骗,受骗的只是一个人;
可在科学上欺骗,只是为了钱而不坚持正确的观点,受害的将是成千上万的病人。
Jiǎrú nǐ zài àiqíng shàng qīpiàn, shòupiàn de zhǐshì yīgè rén;
kě zài kēxué shàng qīpiàn, zhǐshì wèile qián ér bù jiānchí zhèngquè de guāndiǎn, shòuhài de jiāng shì chéng qiān shàng wàn de bìngrén.
Giá như bạn lừa gạt trong tình yêu, người bị lừa chỉ là một người thôi;
còn lừa gạt về mặt khoa học, chỉ là vì tiền mà không kiên trì quan điểm đúng đắn, những người bị hại là hàng ngàn hàng vạn bệnh nhân.
我想,如果我那样做了,我这一生都会受到良心的谴责。”
Wǒ xiǎng, rúguǒ wǒ nàyàng zuòle, wǒ zhè yīshēng dūhuì shòudào liángxīn de qiǎnzé.”
Tôi nghĩ, nếu tôi làm như vậy, thì cả cuộc đời này của tôi sẽ bị khiển trách bởi lương tâm.
她说,
“一个搞科学研究的人,最重要的就是要敢于坚持真理,敢于坚持自己的观点。
Tā shuō,
“yīgè gǎo kēxué yánjiū de rén, zuì zhòngyào de jiùshì yào gǎnyú jiānchí zhēnlǐ, gǎnyú jiānchí zìjǐ de guāndiǎn.
Cô ấy nói,
“một người làm về nghiên cứu khoa học, điều quan trọng nhất là phải dám kiên trì chân lý, phải dám kiên trì quan điểm của mình.
当然也要敢于修正错误。”
Dāngrán yě yào gǎnyú xiūzhèng cuòwù.”
Đương nhiên cũng phải dám sửa chữa sai lầm.
面试结果出来了。
Miànshì jiéguǒ chūláile.
Có kết quả phỏng vấn rồi.
大厅里挤满了人。
Dàtīng lǐ jǐ mǎnle rén.
Trong sảnh đã chật kín người.
秘书宣布:
“获得阿加尔教授博士研究生资格的是来自中国的伦敦大学学生彭艺云小姐!”
Mìshū xuānbù:
“Huòdé ā jiā’ěr jiàoshòu bóshì yánjiūshēng zīgé de shì láizì zhōngguó de lúndūn dàxué xuéshēng péngyìyún xiǎojiě!”
Thư kí nói:
“Giành được tư cách nghiên cứu sinh tiến sĩ của giáo Archer là cô Bành Nghệ Vân học sinh trường đại học Luân Đôn đến từ Trung Quốc.
阿加尔教授站起来,他走到彭艺云的跟前,当着众人对她说:
“你看,我的孩子,你跟我争论了两个小时,我还是决定要录取你。
Ā jiā’ěr jiàoshòu zhàn qǐlái, tā zǒu dào péngyìyún de gēnqián, dāngzhe zhòngrén duì tā shuō:
“Nǐ kàn, wǒ de háizi, nǐ gēn wǒ zhēnglùnle liǎng gè xiǎoshí, wǒ háishì juédìng yào lùqǔ nǐ.
Giáo sư Archer đứng dậy, ông ấy đi đến trước mặt Bành Nghệ Vân, trước mặt mọi người nói với cô ấy rằng:
“Con thấy chưa, con tranh luận với ta mất hai tiếng, nhưng mà tôi vẫn quyết định nhận con.
你知道为什么吗?
我喜欢你的真诚和坦白,也欣赏你的勇气。
Nǐ zhīdào wèishéme ma?
Wǒ xǐhuān nǐ de zhēnchéng hé tǎnbái, yě xīnshǎng nǐ de yǒngqì.
Con biết tại sao không?
Ta thích sự chân thành và thẳng thắn của con, cũng thích cái lòng can đảm của con.
我要你做我的研究生,是让你在我的支持下,尽情地反对我的理论。
Wǒ yào nǐ zuò wǒ de yánjiūshēng, shì ràng nǐ zài wǒ de zhīchí xià, jìnqíng de fǎnduì wǒ de lǐlùn.
Ta muốn con làm nghiên cứu sinh của ta, là muốn con dưới sự ủng hộ của ta, tha hồ phản đối lý thuyết của ta.
如果事实证明你是错的,我当然会高兴;
Rúguǒ shìshí zhèngmíng nǐ shì cuò de, wǒ dāngrán huì gāoxìng;
Nếu sự thật chứng minh con sai, thì ta đương nhiên sẽ rất vui,
要是我们俩都对,我更高兴;
Yàoshi wǒmen liǎ dōu duì, wǒ gèng gāoxìng;
còn nếu như hai chúng ta đều đúng, ta còn vui hơn:
要是你是对的,我是错的,哈!
Yàoshi nǐ shì duì de, wǒ shì cuò de, hā!
Còn nếu như con đúng, mà ta sai, ha ha!
你想象不到我将会多么高兴!
Nǐ xiǎngxiàng bù dào wǒ jiāng huì duōme gāoxìng!
Thì con sẽ không tưởng tượng được thì ta vui biết nhường nào!
不错,你还没有出生时,我就是一个心理学家了,可我希望到我死的时候,你能成为比我更好的、更优秀的心理学家。
Bùcuò, nǐ hái méiyǒu chūshēng shí, wǒ jiùshì yī ge xīnlǐ xué jiāle, kě wǒ xīwàng dào wǒ sǐ de shíhòu, nǐ néng chéngwéi bǐ wǒ gèng hǎo de, gèng yōuxiù de xīnlǐ xué jiā.
Đúng vậy, lúc con chưa chào đời, thì ta đã là nhà tâm lý học rồi, nhưng mà ta mong sau khi ta mất, con có thể trở thành nhà tâm lý học giỏi hơn và ưu tú hơn ta.
只有这样,世界才有希望。”
Zhǐyǒu zhèyàng, shìjiè cái yǒu xīwàng.”
Chỉ có như vậy, thế giới mới có hi vọng.
彭艺云被深深地感动了。
Péngyìyún bèi shēn shēn de gǎndòngle.
Bành Nghệ Vân rất cảm động.
她终于实现了自己的愿望,作为阿加尔教授的博士研究生,走进了她向往已久的牛津大学。
Tā zhōngyú shíxiànle zìjǐ de yuànwàng, zuòwéi ā jiā’ěr jiàoshòu de bóshì yánjiūshēng, zǒu jìnle tā xiàngwǎng yǐ jiǔ de niújīn dàxué.
Cuối cùng cô ấy đã thực hiện được ước mơ của mình, làm nghiên cứu sinh tiến sĩ của giáo sư Archer, rồi bước vào trường đại học Oxford mà cô ấy hằng mong bấy lâu nay.

Miànshì
Phỏng vấn
考试是单独面试。
Kǎoshì shì dāndú miànshì.
Cuộc thi là từng người từng người phỏng vấn.
我一走进小会客厅,坐在正中沙发上的一个老外便站了起来,我认出来了,他就是贝克先生,公司招聘广告上有他的照片。
Wǒ yī zǒu jìn xiǎo huì kètīng, zuò zài zhèngzhòng shāfā shàng de yīgè lǎowài biàn zhànle qǐlái, wǒ rèn chūláile, tā jiùshì bèikè xiānshēng, gōngsī zhāopìn guǎnggào shàng yǒu tā de zhàopiàn.
Tôi vừa bước vào phòng tiếp khách nhỏ, có một người nước ngoài ngồi ở giữa ghế sofa liền đứng dậy, tôi nhận ra, ông ấy chính là Bối Khắc tiên sinh, trên trang quảng cáo tuyển dụng của công ty có ảnh của ông ấy.
“是你?!
你就是……?”
“Shì nǐ?! Nǐ jiùshì……?”
“Là cậu?!
Cậu chính là ….?”
贝克先生用流利的中文说出了我的名字,并且快步走到我的面前,紧紧握住我的手。
Bèikè xiānshēng yòng liúlì de zhōngwén shuō chūle wǒ de míngzì, bìngqiě kuài bù zǒu dào wǒ de miànqián, jǐn jǐn wò zhù wǒ de shǒu.
Bối Khắc tiên sinh đọc tên tôi bằng giọng tiếng Trung lưu loát, đồng thời nhanh bước đi đến trước mặt tôi, nắm chặt tay tôi.
“原来是你!
我找你找了很长时间了。”
“Yuánlái shì nǐ!
Wǒ zhǎo nǐ zhǎole hěn cháng shíjiānle.”
“Hóa ra là cậu!
Tôi tìm cậu rất lâu rồi.”
贝克先生一脸的惊喜,激动地转过身对在座的另几位考官说道:
“先生们,我给你们介绍一下,这位就是救我女儿的那位年轻人。”
Bèikè xiānshēng yī liǎn de jīngxǐ, jīdòng de zhuǎnguò shēn duì zàizuò de lìng jǐ wèi kǎoguān shuōdao:
“Xiānshēngmen, wǒ gěi nǐmen jièshào yīxià, zhè wèi jiùshì jiù wǒ nǚ’ér dì nà wèi niánqīng rén.”
Vẻ mặt của Bối Khắc tiên sinh tỏ ra cái niềm vui bất ngờ,  quay người lại nói với mấy vị giám khảo khác đang có mặt ở đấy một cách rất xúc động:
“Thưa các ông, tôi xin giới thiệu với mọi người một chút ạ, vị này chính là người thanh niên đã cứu con gái tôi.”
我的心狂跳起来,还没等我说话,贝克先生就把我拉到他旁边的沙发上坐下,说道:
“我划船的技术太差了,不小心把女儿掉进了昆明湖里,要不是你就麻烦了。
Wǒ de xīn kuáng tiào qǐlái, hái méi děng wǒ shuōhuà, bèikè xiānshēng jiù bǎ wǒ lā dào tā pángbiān de shāfā shàng zuò xià, shuōdao:
“Wǒ huá chuán de jìshù tài chàle, bù xiǎoxīn bǎ nǚ’ér diào jìnle kūnmíng hú lǐ, yào bùshì nǐ jiù máfanle.
Lòng tôi bối rối hẳn lên, còn chưa đợi tôi nói, Bối Khắc tiên sinh liền kéo tôi ngồi xuống ghế sofa cạnh ông ấy, nói rằng:
“Kỹ năng chèo thuyền của tôi quá kém, không cẩn thận làm con gái ngã xuống hồ Côn Minh, nếu không phải là cậu thì gay to.
真抱歉,当时我只顾看女儿了,也没来得及向你道谢。”
Zhēn bàoqiàn, dāngshí wǒ zhǐgù kàn nǚ’érle, yě méi láidéjí xiàng nǐ dàoxiè.”
Thành thật xin lỗi, lúc đó tôi chỉ lo về con gái, cũng chưa kịp nói lời cảm ơn cậu.”
我努力抑制住心跳,认真地说:
“贝克先生,您是不是搞错了。
Wǒ nǔlì yìzhì zhù xīntiào, rènzhēn de shuō:
“Bèikè xiānshēng, nín shì bùshì gǎo cuòle.
Tôi cố gắng kiềm chế để cho mình bình tĩnh lại, rất nghiêm túc nói rằng:
“Bối Khắc tiên sinh, liệu ngài có nhầm người không.
我以前从未见过您,更没救过您的女儿。”
Wǒ yǐqián cóng wèi jiànguò nín, gèng méi jiùguò nín de nǚ’ér.”
Tôi từ trước đến giờ chưa gặp ngài bao giờ, hơn nữa chưa từng cứu con gái ngài bao giờ.”
贝克先生又拉住我说:
“你忘记了?
四月二日,颐和园昆明湖上……肯定是你!
我记得你脸上这颗痣。
年轻人,你骗不了我的。”
Bèikè xiānshēng yòu lā zhù wǒ shuō:
“Nǐ wàngjìle?
Sì yuè èr rì, yíhéyuán kūnmíng húshàng……kěndìng shì nǐ!
Wǒ jìdé nǐ liǎn shàng zhè kē zhì.
Niánqīng rén, nǐ piàn bùliǎo wǒ de.”
Bối Khắc tiên sinh lại cầm tay tôi nói rằng:
“Cậu quên rồi à?
Ngày mùng hai tháng tư dương lịch, ở hồ Côn Minh trong Di Hòa Viên …. chắc chắn là cậu!
Tôi còn nhớ nốt ruồi trên mặt của cậu.
Anh bạn trẻ, cậu không lừa được tôi đâu.”
贝克先生一脸的得意。
Bèikè xiānshēng yī liǎn de déyì.
Vẻ mặt của Bối Khắc tiên sinh rất hả hê.
我站起来:
“贝克先生,我想您肯定认错人了,我真的没救过您女儿。”
Wǒ zhàn qǐlái:
“Bèikè xiānshēng, wǒ xiǎng nín kěndìng rèncuò rénle, wǒ zhēn de méi jiùguò nín nǚ’ér.”
Tôi đứng dậy:
“Thưa ngài Bối Khắc tiên sinh, tôi nghĩ là ngài chắc chắn nhận nhầm người rồi, thật sự tôi chưa từng cứu con gái ngài bao giờ.”
我说得很坚决,贝克先生一时愣住了。
Wǒ shuō dé hěn jiānjué, bèikè xiānshēng yīshí lèng zhùle.
Tôi nói rất kiên quyết, Bối Khắc tiên sinh chợt sững người lại.
忽然,他又笑了,“年轻人,我欣赏你的诚实,好,你被录取了。”
Hūrán, tā yòu xiàole,“niánqīng rén, wǒ xīnshǎng nǐ de chéngshí, hǎo, nǐ bèi lùqǔle.”
Bỗng dưng, ông ấy lại cười lên, “Anh bạn trẻ, tôi thích sự thành thật của cậu, Ok, cậu đã trúng tuyển.”
这时,我站起来说:
“谢谢您的赏识。
不过,对不起,我不欣赏您这样的面试,因为,这显然是在蒙人。
所以,我不想到贵公司工作了。”
Zhè shí, wǒ zhàn qǐlái shuō:“Xièxiè nín de shǎngshì. Bùguò, duìbùqǐ, wǒ bù xīnshǎng nín zhèyàng de miànshì, yīnwèi, zhè xiǎnrán shì zài méng rén.
Suǒyǐ, wǒ bù xiǎngdào guì gōngsī gōngzuòle.”
Lúc này, tôi đứng dậy nói:
“Cảm ơn những lời khen của ông.
Nhưng, xin lỗi ông, tôi không thích cái kiểu phỏng vấn này của ngài, bởi vì, đây rõ ràng đang bẫy người ta.
Cho nên, tôi không muốn đến làm việc ở quý công ty nữa.
说完,我走出了会客厅。
Shuō wán, wǒ zǒuchūle huì kètīng.
Nói xong, tôi bước ra khỏi phòng tiếp khách.

Hán 6_Bài 19 _ 无声的泪

无声的泪
Wúshēng de lèi
Bài 19: Giọt nước mắt không lời.
多年前的一场意外,使我由正常人变成了一个残疾人,其中的人情冷暖常常让我流泪。
Duōnián qián de yī chǎng yìwài, shǐ wǒ yóu zhèngcháng rén biàn chéngle yīgè cánjí rén, qízhōng de rénqíng lěngnuǎn chángcháng ràng wǒ liúlèi.
Sự cố của cách đây nhiều năm, khiến tôi từ một người bình thường đã trở thành một người tàn tật, nhân tình thế thái trong đó thường khiến cho tôi nhỏ lệ.
说心里话,我对人性是有些失望的,尤其是在找工作受到歧视时。
Shuō xīnlǐ huà, wǒ duì rénxìng shì yǒuxiē shīwàng de, yóuqíshì zài zhǎo gōngzuò shòudào qí shì shí.
Nói thật lòng, tôi có chút thất vọng về con người, nhất là lúc đi xin việc làm bị kỳ thị.
我几乎失去了求职的勇气,但为了生活,又不得不再三地去求职,一次又一次地接受被拒绝的打击。
Wǒ jīhū shīqùle qiúzhí de yǒngqì, dàn wèile shēnghuó, yòu bùdé bù zàisān de qù qiúzhí, yīcì yòu yīcì de jiēshòu bèi jùjué de dǎjí.
Tôi gần như đã đánh mất lòng can đảm đi xin việc, nhưng vì cuộc sống, lại đành phải nhiều lần đi xin việc, hết lần này đến lần khác phải chịu đựng sự đả kích bị từ chối.
后来,我终于进了一家报社,负责资料管理。
Hòulái, wǒ zhōngyú jìnle yījiā bàoshè, fùzé zīliào guǎnlǐ.
Sau đó, cuối cùng tôi đã vào làm ở một tòa soạn, phụ trách quản lý tài liệu.
这工作不但非常适合我,而且我也能胜任,同事们对我也非常友好,非常关心,使我对人生又充满了信心。
Zhè gōngzuò bùdàn fēicháng shìhé wǒ, érqiě wǒ yě néng shèng rèn, tóngshìmen duì wǒ yě fēicháng yǒuhǎo, fēicháng guānxīn, shǐ wǒ duì rénshēng yòu chōngmǎnle xìnxīn.
Công việc này không những thích hợp với tôi, hơn nữa tôi cũng đảm nhiệm được, các đồng nghiệp cũng rất quý tôi, rất quan tâm tôi, khiến tôi tràn đầy niềm tin vào cuộc sống.
有一次,发生了一个重大事件,同事们为了抢新闻忙得团团转,我的工作一下子变得重要起来。
Yǒu yīcì, fāshēngle yīgè zhòngdà shìjiàn, tóngshìmen wèile qiǎng xīnwén máng dé tuántuánzhuàn, wǒ de gōngzuò yīxià zi biàn dé zhòngyào qǐlái.
Có một lần, đã xảy ra một sự kiện trọng đại, đồng nghiệp vì nhanh chóng đăng tin ai cũng bận xoay chong chóng, công việc của tôi chợt quan trọng hẳn lên.
由于大家对资料的要求非常急,而我 的聋哑却给工作带来了困难,这不仅延误了宝贵的时间,也让我出了不少差错。
Yóuyú dàjiā duì zīliào de yāoqiú fēicháng jí, ér wǒ de lóng yǎ què gěi gōngzuò dài láile kùnnán, zhè bùjǐn yánwùle bǎoguì de shíjiān, yě ràng wǒ chū le bù shǎo chācuò.
Bởi vì mọi người yêu cầu gấp về tài liệu, nhưng vì sự cầm điếc của tôi lại đem lại khó khăn cho công việc, điều này không những làm mất thời gian quý báu của mọi người, cũng khiến tôi xảy ra không ít sơ xuất.
事后,同事的不满,使得单位领导不得不重新考虑,我到底适合不适合继续在这儿工作。
Shìhòu, tóngshì de bùmǎn, shǐdé dānwèi lǐngdǎo bùdé bù chóngxīn kǎolǜ, wǒ dàodǐ shìhé bu shìhé jìxù zài zhè’er gōngzuò.
Sau việc đó, sự hài lòng của đồng nghiệp, khiến cho lãnh đạo cơ quan đành phải xem xét lại, tôi rốt cuộc có thích hợp làm việc ở chỗ này nữa.
因此,有人提出把我调离报社。
Yīncǐ, yǒurén tíchū bǎ wǒ diào lí bàoshè.
Vì thế, có người nêu ra việc điều tôi rời khỏi tòa soạn.
这不仅是为了单位,也是为我好。
Zhè bùjǐn shì wèile dānwèi, yěshì wèi wǒ hǎo.
Điều này không chỉ là vì đơn vị, cũng là tốt cho tôi.
但我实在舍不得离开这个我热爱的工作,我跑去向领导保证,我可以认真学,可以加快速度。
Dàn wǒ shízài shěbudé líkāi zhège wǒ rè’ài de gōngzuò, wǒ pǎo qùxiàng lǐngdǎo bǎozhèng, wǒ kěyǐ rènzhēn xué, kěyǐ jiākuài sùdù.
Nhưng mà tôi không lỡ rời xa công việc mà tôi yêu thích này, tôi chạy đến chỗ lãnh đạo cam kết, tôi có thể học nghiêm túc, có thể đẩy nhanh tốc độ học.
从领导的眼神和表情中,我看不出他是什么态度,可是我想,他不可能让我再呆在这儿了。
Cóng lǐngdǎo de yǎnshén hé biǎoqíng zhōng, wǒ kàn bù chū tā shì shénme tàidù, kěshì wǒ xiǎng, tā bù kěnéng ràng wǒ zài dāi zài zhè’erle.
Từ ánh mắt vẻ mặt của sếp, tôi không nhận ra được thái độ của ông ấy là gì, nhưng tôi nghĩ rằng, ông ấy không thể nào để tôi tiếp tục ở lại đây nữa.
这对我真是个沉重的打击。
Zhè duì wǒ zhēnshi gè chénzhòng de dǎjí.
Điều này đối với tôi thật sự là một sự đả kích nặng nề.
由于疑心作怪,我感到同事们不再像以往那样热情了。
Yóuyú yíxīn zuòguài, wǒ gǎndào tóngshìmen bù zài xiàng yǐwǎng nàyàng rèqíngle.
Bởi vì lòng nghi ngờ tác quái, tôi cảm thấy các đồng nghiệp không nhiệt tình như trước nữa.
过去他们有任何活动都会叫我参加,可是最近他们每星期一、三、五晚上都有活动,地点就在办公室,却根本不通知我。
Guòqù tāmen yǒu rènhé huódòng dūhuì jiào wǒ cānjiā, kěshì zuìjìn tāmen měi xīngqí yī, sān, wǔ wǎnshàng dū yǒu huódòng, dìdiǎn jiù zài bàngōngshì, què gēnběn bù tōngzhī wǒ.
Trước đây họ có bất cứ sinh hoạt gì đều bảo tôi tham gia, nhưng mà bữa nay họ cứ tối thứ hai tư sáu hàng tuần đều tổ chức sinh hoạt, địa chỉ ở ngay văn phòng, nhưng hoàn toàn không báo cho tôi biết.
我也故意装作不知道。
Wǒ yě gùyì zhuāng zuò bù zhīdào.
Tôi cũng cố tình giả vờ không biết.
一天,我实在控制不住了,就趁他们活动时,装作要拿东西,进了办公室。
Yītiān, wǒ shízài kòngzhì bù zhùle, jiù chèn tāmen huódòng shí, zhuāng zuò yào ná dōngxī, jìnle bàngōngshì.
Có một hôm, tôi thật sự không kiềm chế được nữa, liền nhân lúc họ sinh hoạt giả vờ vào lấy đồ, rồi vào trong văn phòng.
当我打开大门时,他们都吓了一跳,而我更是吃了一惊。
Dāng wǒ dǎkāi dàmén shí, tāmen dōu xiàle yī tiào, ér wǒ gèng shì chīle yī jīng.
Lúc tôi đẩy cửa vào, làm cho tất cả họ giật nảy mình, còn tôi càng hết hồn hơn.
原来他们不是在打牌或举行舞会等活动,而是请了一位手语老师在教他们学 手语。
Yuánlái tāmen bùshì zài dǎpái huò jǔxíng wǔhuì děng huódòng, ér shì qǐngle yī wèi shǒuyǔ lǎoshī zài jiào tāmen xué shǒuyǔ.
Hóa là là họ không phải đang đánh bài hoặc tổ chức vũ hội hay các hoạt động khác, mà là mời một cô giáo ngôn ngữ kí hiệu đang dạy họ ngôn ngữ kí hiệu.
不仅同事们个个都在,连领导也在。
Bùjǐn tóngshìmen gè gè dōu zài, lián lǐngdǎo yě zài.
Không chỉ đồng nghiệp ai cũng có mặt ở đây, ngay cả sếp cũng có mặt ở đây.
为了解决在工作中与我沟通的困难,同事们都放弃了下班后的休息时间,认真地学手语,来配合我的工作。
Wèi le jiějué zài gōngzuò zhōng yǔ wǒ gōutōng de kùnnán, tóngshìmen dōu fàngqìle xiàbān hòu de xiūxí shíjiān, rènzhēn de xué shǒuyǔ, lái pèihé wǒ de gōngzuò.
Để giải quyết cái khó khăn trao đổi với tôi trong công việc, các đồng nghiệp đều phải hi sinh thời gian nghỉ ngơi sau giờ làm việc, rất nghiêm túc học ngôn ngữ kí hiệu, để phối hợp công việc của tôi.
为了不把我调走,他们付出了多少心血啊。
Wèi le bù bǎ wǒ diào zǒu, tāmen fùchūle duōshǎo xīnxuè a.
Vì để không điều tôi đi chỗ khác, họ đã bỏ ra biết bao là tâm huyết.
第一次,我发现了自己的无知,也发现了人性的崇高和美丽;也是第一次,我流下了不是感伤而是感激的泪水。
Dì yī cì, wǒ fāxiànle zìjǐ de wúzhī, yě fāxiànle rénxìng de chónggāo hé měilì; yěshì dì yī cì, wǒ liú xià le bùshì gǎnshāng ér shì gǎnjī de lèishuǐ.
Lần đầu tiên, tôi thấy cái sự vô tri của mình, cũng thấy cái sự cao cả và đẹp đẽ của con người, cũng là lần đầu, tôi đã nhỏ giọt nước mắt không phải buồn thương mà là những giọt nước mắt biết ơn.

Màozi
小丽是个可爱的小女孩,可是,当她念三年级的时候,得了一种病,必须住院接受三个月的化疗。
Xiǎo lì shìgè kě’ài de xiǎo nǚhái, kěshì, dāng tā niàn sān niánjí de shíhòu, dé le yī zhǒng bìng, bìxū zhùyuàn jiēshòu sān gè yuè de huàliáo.
Tiểu Lệ là một bé gái rất dễ thương, nhưng mà, lúc tiểu Lệ học lớp ba, mắc một căn bệnh, nhất định phải nằm viện tiếp nhận hóa trị ba tháng.
出院后,她显得更瘦小了,也不像以前那样活泼了。
Chūyuàn hòu, tā xiǎndé gèng shòuxiǎole, yě bù xiàng yǐqián nàyàng huópōle.
Sau khi ra viện, cô bé có vẻ ốm yếu hơn trước nhiều, cũng không hoạt bát như trước đây nữa.
更可怕的是,原来她有一头美丽的黑发,现在差不多都快掉光了。
Gèng kěpà de shì, yuánlái tā yǒu yītóu měilì de hēi fǎ, xiànzài chàbùduō dōu kuài diào guāngle.
Điều càng đáng sợ hơn đó là, trước đây cô bé có một bộ tóc đen đẹp, bây giờ gần như đã sắp rụng hết cả rồi.
虽然她聪明好学,完全能补上落下的功课,然而,每天光着头到学校去上课,对她这样一个七八岁的小女孩来说,是一件非常痛苦的事,所以她不得不戴上帽子。
Suīrán tā cōngmíng hǎoxué, wánquán néng bǔ shàng luòxià de gōngkè, rán’ér, měitiān guāngzhe tóu dào xuéxiào qù shàngkè, duì tā zhèyàng yīgè qībā suì de xiǎo nǚhái lái shuō, shì yī jiàn fēicháng tòngkǔ de shì, suǒyǐ tā bùdé bù dài shàng màozi.
Mặc dù cô bé vừa thông mình vừa hiếu học, hoàn toàn có thể học bù lại được bài vở đã bỏ dở , thế nhưng, ngày nào cũng phải đầu trọc đến trường học, đối với một bé gái bảy đến tám tuổi như thế này mà nói, là một việc vô cùng đau khổ, vì thế tiểu Lệ đành phải đội một cái mũ.
老师知道小丽的痛苦。
Lǎoshī zhīdào xiǎo lì de tòngkǔ.
Thầy giáo biết được nỗi đau khổ của bé Lệ.
就在她回学校上课前,对班上的孩子们说:“从下星期一开始,我们要学习认识各种各样的帽子。
Jiù zài tā huí xuéxiào shàngkè qián, duì bān shàng de háizimen shuō:“Cóng xià xīngqí yī kāishǐ, wǒmen yào xuéxí rènshì gè zhǒng gè yàng de màozi.
Ngay trước lúc tiểu Lệ về trường học, nói với các em trong lớp rằng: “bắt đầu từ thứ hai tuần sau, chúng phải học nhận biết nhiều loại mũ.”
所有的同学都要戴上自己最喜欢的帽子到学校来,越新奇越好!”
Suǒyǒu de tóngxué dōu yào dài shàng zìjǐ zuì xǐhuān de màozi dào xuéxiào lái, yuè xīnqí yuè hǎo!”
Tất cả các em ai cũng phải đội mũ mà mình thích nhất đến trường, càng mới lạ càng tốt!”
星期一到了,离开学校三个月的小丽第一次回到了她熟悉的教室,但是,她站在教室门口迟迟不敢进去,担心同学会笑她,因为她戴了一顶帽子。
Xīngqí yī dàole, líkāi xuéxiào sān gè yuè de xiǎo lì dì yī cì huí dàole tā shúxī de jiàoshì, dànshì, tā zhàn zài jiàoshì ménkǒu chí chí bù gǎn jìnqù, dānxīn tóngxué huì xiào tā, yīnwèi tā dàile yī dǐng màozi.
Đến thứ hai rồi, tiểu Lệ đã xa trường ba tháng lần đầu quay lại phòng học mà mình quen thuộc, nhưng mà, tiểu Lệ cứ đứng ngoài cửa lớp loay hoay mãi không dám vào, lo các bạn cười chê, vì cô bé đã đội một cái mũ.
可是,让她感到意外的是,班上的每一个同学都戴着帽子,和他们花花绿绿的帽子比起来,她那顶帽子显得太普通了,几乎没有引起任何人的注意。
Kěshì, ràng tā gǎndào yìwài de shì, bān shàng de měi yīgè tóngxué dōu dàizhe màozi, hé tāmen huāhuā lǜlǜ de màozi bǐ qǐlái, tā nà dǐng mào zǐ xiǎndé tài pǔtōngle, jīhū méiyǒu yǐnqǐ rènhé rén de zhùyì.
Nhưng mà, điều khiến cho tiểu Lệ bất ngờ đó là, các bạn trong lớp ai cũng đội mũ, so với những cái mũ lòe loẹt của các bạn, cái mũ của tiểu Lệ có vẻ quá bình thường, gần như không ai để ý tới.
一下子,她觉得自己跟别人没有什么不一样,没有什么东西可以影响她与同学们自由自在地交往了,她轻松地笑了,笑得那样甜。
Yīxià zi, tā juédé zìjǐ gēn biérén méiyǒu shén me bù yīyàng, méiyǒu shén me dōngxī kěyǐ yǐngxiǎng tā yǔ tóngxuémen zìyóu zìzài de jiāowǎngle, tā qīngsōng de xiàole, xiào dé nàyàng tián.
Ngay lập tức, cô bé cảm thấy mình chẳng khác gì với mọi người cả, không có điều gì có thể ảnh hưởng tới tiểu Lệ và các bạn qua lại bình thường với nhau, tiểu Lệ cười nhẹ nhõm, cười rất tươi.
日子就这样一天天过去了。
Rìzi jiù zhèyàng yī tiāntiān guòqùle.
Ngày tháng cứ từng ngày từng ngày trôi qua.
现在,小丽常常忘了自己还戴着一顶帽子;同学们好像也忘了。
Xiànzài, xiǎo lì chángcháng wàngle zìjǐ hái dàizhe yī dǐng màozi; tóngxuémen hǎoxiàng yě wàngle.
Bây giờ, tiểu Lệ đã quên mất mình đang đội một cái mũ, các bạn hình như cũng quên mất.

Hán 6_Bài 18 _ 一盒蛋糕

一盒蛋糕
Yī hé dàngāo
Một hộp bánh Gato
说起来,已经是好几年前的事了。
Shuō qǐlái, yǐjīng shì hǎojǐ nián qián de shìle.
Kể tới chuyện này, đã là chuyện những mấy năm về trước rồi.
那一年,我在大学读书。
Nà yī nián, wǒ zài dàxué dúshū.
Năm đó, Tôi học đại học.
一天傍晚,我刚要锁上宿舍的门出去, 姐姐急忙跑来,递给我一盒生日蛋糕。
Yītiān bàngwǎn, wǒ gāng yào suǒ shàng sùshè de mén chūqù, jiějiě jímáng pǎo lái, dì gěi wǒ yī hé shēngrì dàngāo.
Một hôm trời chạng vạng tối, tôi đang định khóa cửa phòng để đi, chị gái vội vàng chạy tới, đưa một cái bánh sinh nhật cho tôi.
她说本来想给我搞个生日晚会,但刚接到通知,晚上要出差,没时间搞了。
Tā shuō běnlái xiǎng gěi wǒ gǎo gè shēngrì wǎnhuì, dàn gāng jiē dào tōngzhī, wǎnshàng yào chūchāi, méi shíjiān gǎole.
Chị nói lẽ ra định tổ chức một buổi sinh nhật cho tôi, nhưng vừa nhận được thông báo, buổi tối phải đi công tác, không có thời gian tổ chức nữa.
我因为也有急事要出去,就顺手把那盒蛋糕放在靠门口的桌子上了,那是刘西西的桌子。
Wǒ yīnwèi yěyǒu jíshì yào chūqù, jiù shùnshǒu bà nà hé dàngāo fàng zài kào ménkǒu de zhuōzi shàngle, nà shì liú xīxī de zhuōzi.
Tôi vì cũng có việc gấp phải ra ngoài, liền tiện tay để cái bánh ở bàn sát cửa, đó là bàn của Lưu Tây Tây.
晚自习后,我回到宿舍,屋子里特别热闹。
Wǎn zìxí hòu, wǒ huí dào sùshè, wūzi lǐ tèbié rènào.
Buổi tối sau khi tự học xong, tôi về đến ký túc xá, trong phòng rất náo nhiệt.
八九个女孩子围着刘西西,个个手中拿着一块蛋糕,高高兴兴地吃着。
Bājiǔ gè nǚ háizi wéizhe liú xīxī, gè gè shǒuzhōng názhe yīkuài dàngāo, gāo gāoxìng xìng de chīzhe.
Tám chín đứa con gái vây quanh Liu Tây Tây, ai nấy đều cầm một miếng bánh trên tay, ăn rất vui vẻ.
我忽然想起姐姐送来的蛋糕,可我还来不及弄清这是怎么回事,刘西西就拉着我的手兴奋地对我说:“我真高兴!竟然有人知道我今天过生日,特意给我送来一盒蛋糕。
蛋糕上面还有漂亮的花和字,可惜你回来晚了,没看见 ……”  
Wǒ hūrán xiǎngqǐ jiějiě sòng lái de dàngāo, kě wǒ hái láibují nòng qīng zhè shì zěnme huí shì, liú xīxī jiù lāzhe wǒ de shǒu xīngfèn de duì wǒ shuō:“Wǒ zhēn gāoxìng! Jìngrán yǒurén zhīdào wǒ jīntiānguò shēngrì, tèyì gěi wǒ sòng lái yī hé dàngāo.
Dàngāo shàngmiàn hái yǒu piàoliang de huā hé zì, kěxí nǐ huílái wǎnle, méi kànjiàn……”
Tôi chợt nhớ ra bánh của chị gái tặng, nhưng tôi vẫn chưa kịp làm rõ chuyện này như thế nào, Liu Tây Tây kéo ngay tay tôi rất vui nói với tôi rằng: “Tớ vui quá, không ngờ có ai đó biết hôm nay là sinh nhật của tớ, tặng riêng một cái bánh cho tớ.
Trên bánh còn có hoa và chữ rất đẹp, chỉ tiếc là bạn về muộn, không nhìn thấy ….”
我一下子傻眼了。
Wǒ yīxià zi shǎyǎnle.
Tôi lập tức nghệt mặt ra.
刘西西把一块蛋糕递到我手里:“她们都说不知道是谁送的蛋糕,你是最后一个离开宿舍的,我猜你一定看见了,告诉我,那个人是男的还是女的?”
Liú xīxī bǎ yīkuài dàngāo dì dào wǒ shǒu lǐ:“Tāmen dōu shuō bu zhīdào shì shéi sòng de dàngāo, nǐ shì zuìhòu yīgè líkāi sùshè de, wǒ cāi nǐ yīdìng kànjiànle, gàosù wǒ, nàgè rén shì nán de háishì nǚ de?”
Liu Tây Tây đưa một miếng bánh vào tay tôi: “Các bạn ấy ai cũng nói không biết bánh của ai tặng, bạn là người cuối cùng rời khỏi phòng, tôi đoán là bạn nhất định sẽ nhìn thấy, nói cho tớ biết đi, người ấy là con trai hay con gái?”
这时候有人开玩笑地说: “一定是女的。咱们西西长得这么丑,哪里会有男孩子喜欢嘛!”
Zhè shíhòu yǒurén kāiwánxiào de shuō: “Yīdìng shì nǚ de. Zánmen xīxī zhǎng dé zhème chǒu, nǎlǐ huì yǒu nán háizi xǐhuān ma!”
Lúc này có bạn trêu nói rằng: “Chắc chắn là con gái. Tây Tây nhà mình trông xấu thế này, làm gì có bạn trai thích chứ!”
西西脸上显出一点失望。
Xīxī liǎn shàng xiǎn chū yīdiǎn shīwàng.
Vẻ mặt của Tây Tây có vẻ hơi thất vọng.
她摇着我的肩:“你快说嘛!你快说嘛!”
Tā yáozhe wǒ de jiān:“Nǐ kuài shuō ma! Nǐ kuài shuō ma!”
Cô ấy lắc vai tôi nói rằng: Cậu mau nói đi, cậu mau nói đi!”
那一刻,我几乎要大声喊出来,这蛋糕是我姐姐送给我的!
Nà yīkè, wǒ jīhū yào dàshēng hǎn chūlái, zhè dàngāo shì wǒ jiějiě sòng gěi wǒ de!
Giây phút đó, tôi gần như muốn lớn tiếng hét lên, cái bánh này là của chị tớ tặng cho tớ!
可是,看到那一张张兴高采烈的脸和西西充满期待的目光,我不忍让大家扫兴, 更不忍让西西出丑。
Kěshì, kàn dào nà yī zhāng zhāng xìnggāocǎiliè de liǎn hé xīxī chōngmǎn qídài de mùguāng, wǒ bùrěn ràng dàjiā sǎoxìng, gèng bùrěn ràng xīxī chūchǒu.
Nhưng mà, nhìn thấy những khuôn mặt đang vui mừng và ánh mắt tràn đầy niềm ao ước đợi chờ của Tây Tây, tôi không nỡ làm mọi người cụt hứng, càng không muốn để cho Tây Tây bẽ mặt.
于是,我只好将错就错地说了一个谎:“是一个很帅的男孩!”
Yúshì, wǒ zhǐhǎo jiāngcuòjiùcuò de shuōle yīgè huǎng:“Shì yīgè hěn shuài de nánhái!”
Thế là, tôi đành phải đâm lao theo lao bịa ra một câu: “Là một bạn nam rất đẹp trai!”
 “好啊!”随着西西的欢呼,大伙儿一齐鼓掌。
“Hǎo a!” Suízhe xīxī de huānhū, dàhuǒ er yīqí gǔzhǎng.
“Hay quá!” theo tiếng hoan hô của Tây Tây, mọi người cùng nhau vỗ tay.
有人说了一句:“一定是哪个人偷偷地喜欢上你了!”
Yǒurén shuōle yījù:“Yīdìng shì nǎge rén tōutōu de xǐhuān shàng nǐle!”
Có ai đấy nói chen vào một câu: “Chắc là người ấy đã yêu thầm bạn rồi!”
西西笑了。
Xīxī xiàole.
Tây Tây cười vui lên.
半夜,西西推醒我,悄悄地问我:“那个男孩是不是我们年级的?”
Bànyè, xīxī tuī xǐng wǒ, qiāoqiāo de wèn wǒ:“Nàgè nánhái shì bùshì wǒmen niánjí de?”
Nửa đêm, Tây Tây đánh thức tôi, thì thầm hỏi tôi: “Bạn nam ấy có phải cùng khóa với bọn mình không?”
我摇摇头。
Wǒ yáo yáotóu.
Tôi lắc đầu.
她又问:“是不是我们学校的?”
Tā yòu wèn:“Shì bùshì wǒmen xuéxiào de?”
Cô ấy lại hỏi: “Có phải trường mình không?”
我只好解释:“天大黑,我看不清那人的脸。”
Wǒ zhǐhǎo jiěshì:“Tiān dà hēi, wǒ kàn bù qīng nà rén de liǎn.”
Tôi đành phải giải thích: “Trời tối quá tớ nhìn không rõ mặt.”
以后的几个星期,宿舍里周末的中心话题都是关于送蛋糕给西西的那个男孩,虽然谈不出什么结果,却为我们找到了一个有趣的话题。
Yǐhòu de jǐ gè xīngqí, sùshè lǐ zhōumò de zhōngxīn huàtí dōu shì guānyú sòng dàngāo gěi xīxī dì nàgè nánhái, suīrán tán bù chū shénme jiéguǒ, què wèi wǒmen zhǎodàole yīgè yǒuqù de huàtí.
Mấy tuần về sau, chủ đều chính cuối tuần ở kí túc xá đều liên quan đến cậu con trai tặng bánh cho Tây Tây, mặc dù không nói lên kết quả gì cả, nhưng lại tìm được một chủ đề thú vị cho chúng tôi.
渐渐地,我们都忘了这件事。
Jiànjiàn de, wǒmen dōu wàngle zhè jiàn shì.
Rồi dần dần, chúng tôi đã quên hết chuyện này.
只是偶然有人向西西问上一句 “那个神秘的男孩有没有消息?”
Zhǐshì ǒurán yǒurén xiàng xīxī wèn shàng yījù “nàgè shénmì de nánhái yǒu méiyǒu xiāoxī?”
Chỉ là thi thoảnh có người hỏi Tây Tây một câu: “Có tin gì về cậu con trai bí ẩn đó chưa?”
而西西总是摇头,还故意加上一声叹息。
Ér xīxī zǒng shì yáotóu, hái gùyì jiā shàng yīshēng tànxí.
Còn Tây Tây luôn lắc đầu, còn cố ý thêm một tiếng thở dài.
毕业前的一天,西西一个人靠着窗口坐着,手里拿着一条粉色的绸带,也许除了西西之外,只有我还记得这绸带正是我生日蛋糕盒上的那一条。
Bìyè qián de yītiān, xīxī yīgè rén kàozhe chuāngkǒu zuòzhe, shǒu lǐ názhe yītiáo fěnsè de chóu dài, yěxǔ chúle xīxī zhī wài, zhǐyǒu wǒ hái jìdé zhè chóu dài zhèng shì wǒ shēngrì dàngāo hé shàng dì nà yītiáo.
Một hôm trước ngày tốt nghiệp, một mình Tây Tây ngồi dựa vào cửa sổ, tay cầm cái dây ruy băng màu phần hồng đấy, có lẽ ngoài Tây Tây ra, chỉ có tôi vẫn nhớ cái dây ruy băng ấy là cái dây trên hộp bánh sinh nhật của tôi.
看到她那副样子,我很想把真相告诉她,好让她死了那份心,可总也开不了口。
Kàn dào tā nà fù yàngzi, wǒ hěn xiǎng bǎ zhēnxiàng gàosù tā, hǎo ràng tā sǐle nà fèn xīn, kě zǒng yě kāi bùliǎo kǒu.
Thấy bộ dạng của cô ấy, tôi rất muốn nói cho cô ấy biết chân tướng sự việc, để cô ấy từ bỏ ý định đó đi, nhưng không tài nào mở miệng ra nói được.
后来,西西要跟随家人到国外去了。
Hòulái, xīxī yào gēnsuí jiārén dào guówài qùle.
Sau đó, Tây Tây phải theo người nhà ra nước ngoài.
我下定决心要把真相告诉她。
Wǒ xiàdìng juéxīn yào bǎ zhēnxiàng gàosù tā.
Tôi hạ quyết tâm đem chân tướng nói cho cô ấy biết.
可是,当我看见她系在头上的那条粉色绸带时,我的心立即又软了下来。
Kěshì, dāng wǒ kànjiàn tā xì zài tóu shàng de nà tiáo fěnsè chóu dài shí, wǒ de xīn lìjí yòu ruǎnle xiàlái.
Nhưng mà, lúc tôi nhìn thấy sợi ruy băng được buộc trên tóc của cô ấy, thì lòng tôi lại lập tức mềm trở lại.
她所表露的那份少女特有的期待,让我深深地感动。
Tā suǒ biǎolù de nà fèn shàonǚ tèyǒu de qídài, ràng wǒ shēn shēn de gǎndòng.
Niềm khoa khát và đợi chờ vốn có của một thiếu nữ mà cô ấy thể hiện, khiến tôi rất cảm động.
我终于什么都没有说,继续将错就错,让她带着这场甜蜜的梦上了飞机,飞向不可预知的未来…
Wǒ zhōngyú shénme dōu méiyǒu shuō, jìxù jiāngcuòjiùcuò, ràng tā dàizhe zhè chǎng tiánmì de mèng shàngle fēijī, fēi xiàng bùkě yùzhī de wèilái…
Cuối cùng tôi cũng không nói gì cả, tiếp tục đâm lao theo lao, để cô ấy mang theo ước mơ ngọt ngào lên máy bay, rồi bay đến tương lai không thể có được…
六年后的一天,西西已是两个孩子的母亲了。
Liù nián hòu de yītiān, xīxī yǐ shì liǎng gè háizi de mǔqīnle.
Vào một hôm sau sáu năm, Tây Tây đã là mẹ của hai con.
丈夫是一位美籍华人。
Zhàngfū shì yī wèi měi jí huárén.
Ông xã là người Mỹ gốc Hoa.
当然,她后来终于知道了那个所谓男孩送蛋糕的事只是一场美丽的误会。
Dāngrán, tā hòulái zhōngyú zhīdàole nàgè suǒwèi nánhái sòng dàngāo de shì zhǐshì yī chǎng měilì de wùhuì.
Đương nhiên, cô ấy cuối cùng cũng đã biết về việc người con trai tặng bánh đó chỉ là một sự hiểu lầm đẹp.
但她并没有责怪我。
Dàn tā bìng méiyǒu zéguài wǒ.
Nhưng cô ấy không hề trách tôi.
相反,她感谢我给了她一段美丽的回忆。
Xiāngfǎn, tā gǎnxiè wǒ gěile tā yīduàn měilì de huíyì.
Trái lại, cô ấy còn cảm ơn tôi đã cho cô ấy một kỉ niệm đẹp.
她还说,当她女儿十八岁时,她会把这段往事当做一个美丽的笑话讲给女儿听……
Tā hái shuō, dāng tā nǚ’ér shíbā suì shí, tā huì bǎ zhè duàn wǎngshì dàngzuò yīgè měilì de xiàohuà jiǎng gěi nǚ’ér tīng……
Cô ấy còn nói, khi con gái cô ấy mười tám tuổi, cô ấy sẽ đem chuyện cũ này coi đó là một câu chuyện vui để kể cho con gái nghe….
原来,并不是所有的错误都会留下遗憾,有时候将错就错,也能错出一段美丽的故事来。
Yuánlái, bìng bùshì suǒyǒu de cuòwù dūhuì liú xià yíhàn, yǒu shíhòu jiāngcuòjiùcuò, yě néng cuò chū yīduàn měilì de gùshì lái.
Hóa ra, không phải tất cả mọi sai lầm đều để lại sự nuối tiếc, đôi khi đâm lao theo lao, lại có được một câu chuyện hay.
向李大姐借了两块钱的事
Xiàng lǐ dàjiě jièle liǎng kuài qián de shì
Chuyện mượn chị Lý hai đồng.
那天,小王跟同事李大姐去办事。
Nèitiān, xiǎo wáng gēn tóngshì lǐ dàjiě qù bànshì.
Hôm đấy, tiểu Vương đi bàn công việc  cùng với chị Lý đồng nghiệp .
回来的路上,小王在书报亭买了一本杂志。
Huílái de lùshàng, xiǎo wáng zài shūbàotíng mǎile yī běn zázhì.
Trên đường về, Tiểu Vương mua một quyển tạp chí ở sạp bán báo.
因没有零钱,就向李大姐借了两块钱。
Yīn méiyǒu língqián, jiù xiàng lǐ dàjiě jièle liǎng kuài qián.
Vì không có tiền lẻ, liền mượn chị Lý hai đồng.
第二天,小王见到李大姐却没提还钱的事。
Dì èr tiān, xiǎo wáng jiàn dào lǐ dàjiě què méi tí huán qián de shì.
Hôm sau, tiểu Vương gặp chị Lý nhưng lại không nhắc đến việc trả tiền.
李大姐心里想:小王可能是没带零钱。
Lǐ dàjiě xīnlǐ xiǎng: Xiǎo wáng kěnéng shì méi dài língqián.
Chị Lý nghĩ bụng: Tiểu Vương chắc là không mang tiền lẻ.
时间长了,小王显然忘了借钱的事。
Shíjiān zhǎngle, xiǎo wáng xiǎnrán wàngle jiè qián de shì.
Lâu ngày, tiểu Vương hiển nhiên quên mất việc mượn tiền.
李大姐就有点儿不高兴。
Lǐ dàjiě jiù yǒudiǎn er bù gāoxìng.
Chị Lý liền có chút không vui.
以前她看小王是个挺不错的小伙子,现在觉得小王这个人不怎么样。
Yǐqián tā kàn xiǎo wáng shìgè tǐng bùcuò de xiǎohuǒzi, xiànzài juédé xiǎo wáng zhège rén bù zě me yàng.
Trước đây chị ấy thấy tiểu Vương là một câu thanh niên rất tuyệt vời, bây giờ thì cảm thấy tiểu Vương con người này không ra gì.
小王谈了个朋友叫红红,是个长得很漂亮的姑娘。
Xiǎo wáng tánle gè péngyǒu jiào hóng hóng, shìgè zhǎng dé hěn piàoliang de gūniáng.
Tiểu Vương yêu một cô bé tên là Hồng Hồng, là một cô gái trông rất xinh xắn.
红红的妈妈是李大姐中学时的同学。
Hóng hóng de māmā shì lǐ dàjiě zhōngxué shí de tóngxué.
Mẹ của tiểu Hồng là bạn học hồi trung học của chị Lý.
一天,她找到李大姐,想了解一下小王这个人怎么样。
Yītiān, tā zhǎodào lǐ dàjiě, xiǎng liǎo jiě yīxià xiǎo wáng zhège rén zěnme yàng.
Một hôm, Cô ấy tìm đến chỗ chị Lý, muốn tìm hiểu một chút tiểu Vương con người này thế nào.
李大姐很痛快地说了自己对小王的看法,最后还说:“你千万别跟红红讲是我说的。
说实话,我们要不是老同学,我决不会说的。”
Lǐ dàjiě hěn tòngkuài de shuōle zìjǐ duì xiǎo wáng de kànfǎ, zuìhòu hái shuō:“Nǐ qiān wàn bié gēn hóng hóng jiǎng shì wǒ shuō de.
Shuō shíhuà, wǒmen yào bùshì lǎo tóngxué, wǒ jué bù huì shuō de.”
Chị Lý rất thẳng thắn nói cái ý kiến của mình đối với tiểu Vương, cuối cùng còn nói một câu: “Bạn đừng bao giờ nói cho bé Hồng biết là tớ nói đấy nhé.
Nói thật, nếu chúng mình không phải là bạn học cũ, thì tôi quyết sẽ không nói đâu.”
小王的好事果然没成。
Xiǎo wáng de hǎoshì guǒrán méi chéng.
Việc tốt của tiểu Vương quả nhiên không thành.
不久前,李大姐家遇到了倒霉的事情。
Bùjiǔ qián, lǐ dàjiě jiā yù dàole dǎoméi de shìqíng.
Cách đây không lâu, gia đình của chị Lý gặp phải chuyện không may.
一场大火把家里很多东西都烧了。
Yī chǎng dà huǒbǎ jiālǐ hěnduō dōngxī dū shāole.
Một trận lửa lớn đã thiêu cháy rất nhiều đồ đạc trong nhà.
虽然保险公司给了赔偿,但是办公室的同事还是由主任带头,每人捐了一些钱,表示点同情的意思。
Suīrán bǎoxiǎn gōngsī gěile péicháng, dànshì bàngōngshì de tóngshì háishì yóu zhǔrèn dàitóu, měi rén juānle yīxiē qián, biǎoshì diǎn tóngqíng de yìsi.
Mặc dù công ty bảo hiểm đã bồi thường, nhưng mà các đồng nghiệp ở văn phòng do chủ nhiệm dẫn đầu, mỗi người quên góp một ít tiền, tỏ chút lòng thành.
少的一二十,多的也不过三五十。
Shǎo de yī’èrshí, duō de yě bùguò sānwǔshí.
Ít thì cũng một hai chục, nhiều thì cũng là dăm ba chục.
晚上下班,小王骑车追上了李大姐。
Wǎnshàng xiàbān, xiǎo wáng qí chē zhuī shàngle lǐ dàjiě.
Buổi tối tan ca, tiểu Vương đạp xe đuổi kịp chị Lý.
他递给李大姐一沓钱,诚恳地说:“大姐,这是我的一千块钱,帮你解决点困难吧。”
Tā dì gěi lǐ dàjiě yī dá qián, chéngkěn de shuō:“Dàjiě, zhè shì wǒ de yīqiān kuài qián, bāng nǐ jiějué diǎn kùnnán ba.”
Cậu ấy đưa một tệp tiền cho chị Lý, rất thành khẩn nói: “Chị ơi, đây là một nghìn đồng của em, để giúp chị giải quyết khó khăn trước mắt.”
李大姐愣了,不知说什么好。
Lǐ dàjiě lèngle, bùzhī shuō shénme hǎo.
Chị Lý sững người ra, chẳng biết phải nói gì hơn.
“刚才在办公室里,我不好意思拿出来。怕大家……他们都有家。
我单身一个,应该多出点儿。”
“Gāngcái zài bàngōngshì lǐ, wǒ bù hǎoyìsi ná chūlái. Pà dàjiā……tāmen dōu yǒu jiā.
Wǒ dānshēn yīgè, yīnggāi duō chū diǎn er.”
“Lúc nãy ở trong văn phòng, em ngại đem ra. Sợ mọi người… họ đều có gia đình.
Em chỉ có một mình, nên quyên góp nhiều một chút.”
李大姐接过钱,哭了。
Lǐ dàjiě jiēguò qián, kūle.
Chị Lý cầm lấy tiền, rơm rớm nước mắt.

Hán 6_Bài 17_bài văn 2 _ 两位刘老师

两位刘老师
Liǎng wèi liú lǎoshī
Hai thầy giáo họ lưu
老刘老师是我的初中老师,小刘老师是我儿子的初中老师,两个人没有任何关系。
Lǎo liú lǎoshī shì wǒ de chūzhōng lǎoshī, xiǎo liú lǎoshī shì wǒ érzi de chūzhōng lǎoshī, liǎng gèrén méiyǒu rènhé guānxì.
Thầy Liu lớn tuổi là thầy giáo cấp hai của tôi, thầy Liu ít tuổi là thầy giáo cấp hai của con trai tôi, hai người không có bất cứ quan hệ.
小刘老师肯定地对我说,你儿子考高中毫无希望。
Xiǎo liú lǎoshī kěndìng dì duì wǒ shuō, nǐ érzi kǎo gāozhōng háo wú xīwàng.
Thầy Liu ít tuổi nói một cách khẳng định với tôi rằng, con trai anh thi cấp ba không có một tí hi vọng nào đâu.
可是老刘老师却指导我儿子进入了重点高中,后来又考上了名牌大学。
Kěshì lǎo liú lǎoshī què zhǐdǎo wǒ érzi jìnrùle zhòngdiǎn gāozhōng, hòulái yòu kǎo shàngle míngpái dàxué.
Nhưng mà thầy Liu lớn tuổi lại chỉ đạo con tôi đỗ cấp ba trường điểm, sau đó lại thi đỗ trường đại học nổi tiếng.
事情得从一堂地理课说起。
Shìqíng děi cóng yītáng dìlǐ kè shuō qǐ.
Sự việc phải nói từ một tiết địa lý.
一次上地理课,儿子进教室时顺手把讲桌上的地球仪转了一下,小刘老师很生气,批评了儿子,还把我叫到学校。
Yīcì shàng dìlǐ kè, érzi jìn jiàoshì shí shùnshǒu bà jiǎng zhuō shàng de dìqiú yízhuǎnle yīxià, xiǎo liú lǎoshī hěn shēngqì, pīpíngle erzi, hái bǎ wǒ jiào dào xuéxiào.
Có một lần học tiết địa lý, lúc con trai tôi vào lớp tiện tay xoay xoay quả địa cầu ở trên bàn giáo viên, thầy Liu ít tuổi rất bực mình, đã phê bình con trai tôi, còn gọi tôi đến trường.
我见了小刘老师,他对我说,你儿子特别爱动,没有他不动的东西。
Wǒ jiànle xiǎo liú lǎoshī, tā duì wǒ shuō, nǐ érzi tèbié ài dòng, méiyǒu tā bù dòng de dōngxī.
Sau khi tôi gặp thầy Liu ít tuổi, thầy ấy nói với tôi, con trai anh rất hiếu động, không có thứ gì mà nó không động chân động tay vào.
这我相信,我们家的闹钟、收音机和照相机,他常拆了装,装了拆,搞得我很生气。
Zhè wǒ xiāngxìn, wǒmen jiā de nàozhōng, shōuyīnjī hé zhàoxiàngjī, tā cháng chāile zhuāng, zhuāngle chāi, gǎo dé wǒ hěn shēngqì.
Điều này tôi tin, đồng hồ báo thức, radio và máy ảnh trong nhà tôi, nó thường xuyên tháo ra lắp lại, lắp lại rồi tháo ra, làm tôi rất cáu.
小刘老师要我好好管教管教他,我向小刘老师保证一定好好管教他。
Xiǎo liú lǎoshī yào wǒ hǎohǎo guǎnjiào guǎnjiào tā, wǒ xiàng xiǎo liú lǎoshī bǎozhèng yīdìng hǎohǎo guǎnjiào tā.
Thầy Liu ít tuổi bảo tôi phải bảo ban cháu thật tốt vào, tôi cam kết với thầy Liu ít tuổi nhất định sẽ bảo ban cháu thật tốt.
告别了小刘老师,我想起了我的老刘老师。
Gàobiéle xiǎo liú lǎoshī, wǒ xiǎngqǐle wǒ de lǎo liú lǎoshī.
Sau khi chào thầy Liu ít tuổi, tôi mới nghĩ tới thầy Liu lớn tuổi của tôi.
一次我和一位同学在黑板上听写生词,老刘老师念了二十个,我有一半写不出来,回到座位后低下头等待挨批评。
Yīcì wǒ hé yī wèi tóngxué zài hēibǎn shàng tīngxiě shēngcí, lǎo liú lǎoshī niànle èrshí gè, wǒ yǒu yībàn xiě bù chūlái, huí dào zuòwèi hòu dīxià tóu děngdài ai pīpíng.
Có một lần tôi và bạn học nghe viết từ mới ở trên bảng, thầy Liu lớn tuổi đọc hai mươi từ, tôi phải tới khoảng một nửa không viết ra được, sau khi về chỗ cúi đầu xuống chờ bị phê bình.
不料老刘老师竟然表扬了我,说我虽然不会写,但决不看旁边同学的,不会就是不会,很诚实。
Bùliào lǎo liú lǎoshī jìngrán biǎoyángle wǒ, shuō wǒ suīrán bù huì xiě, dàn jué bù kàn pángbiān tóngxué de, bù huì jiùshì bù huì, hěn chéngshí.
Không ngờ thầy Liu lớn tuổi lại khen tôi, nói là mặc dù tôi không biết viết, nhưng quyết không nhìn bạn bên cạnh, không biết thì không biết, rất thành thật.
老刘老师还说,我的学生不但要学习 好,更重要的是还要人品好,这样将来才对社会有用。
Lǎo liú lǎoshī hái shuō, wǒ de xuéshēng bùdàn yào xuéxí hǎo, gèng zhòngyào de shì hái yào rén pǐn hǎo, zhèyàng jiānglái cái duì shèhuì yǒuyòng.
Thầy Liu lớn tuổi còn nói, các trò của tôi không những phải học tốt, điều quan trọng hơn đó là nhân phẩm phải tốt, như vậy sau này mới có ích cho xã hội,
我从小刘老师那里回到家时,儿子非常紧张,看也不敢看我。
Wǒ cóngxiǎo liú lǎoshī nàlǐ huí dàojiā shí, érzi fēicháng jǐnzhāng, kàn yě bù gǎn kàn wǒ.
Tôi từ chỗ thầy Liu trẻ về đến nhà, con trai tôi rất lo lắng, ngay cả nhìn cũng không dám nhìn tôi.
我拍了拍他的肩膀说,好小子,没想到,是你让“地球”转起来了。
Wǒ pāile pāi tā de jiānbǎng shuō, hǎo xiǎozi, méi xiǎngdào, shì nǐ ràng “dìqiú” zhuǎn qǐláile.
Tôi vỗ vai nó nói rằng, thằng ôn này không ngờ “trái đất” là con làm cho nó xoay lên à,
那还有什么事情能难倒你呢?
Nà hái yǒu shén me shìqíng néng nán dǎo nǐ ne?
Vậy thì trên đời này còn việc gì có thể làm khó con được chứ?
好好干,儿子,干出个样子给他们看看。
Hǎohǎo gàn, érzi, gàn chū gè yàngzi gěi tāmen kàn kàn.
Con làm thật tốt vào, con ơi, con phải làm thật xuất sắc vào cho họ nhìn.
儿子听了以后点点头说,爸爸你放心吧。
Érzi tīngle yǐhòu diǎndiǎn tóu shuō, bàba nǐ fàngxīn ba.
Sau khi con tôi nghe xong gật đầu và nói rằng, bố ơi bố cứ yên tâm đi.
妻子却对我说,你就这么管教孩子?
Qīzi què duì wǒ shuō, nǐ jiù zhème guǎnjiào háizi?
Nhưng vợ lại nói với tôi, anh dạy con thế này à?
我笑笑说,看看效果再说吧。
Wǒ xiào xiào shuō, kàn kàn xiàoguǒ zàishuō ba.
Tôi mỉm cười nói rằng, cứ xem hiệu quả rồi hẵng hay.
没想到儿子还真出息了。
Méi xiǎngdào ér zǐ hái zhēn chūxīle.
Không ngờ con trai tôi thật đã nở mày nở mặt.
其实儿子根本没有见过老刘老师。
Qíshí érzi gēnběn méiyǒu jiànguò lǎo liú lǎoshī.
Thực ra con trai tôi chưa hề gặp thầy Liu nhiều tuổi.
因为还没有儿子的时候,老刘老师就已经去世了。
Yīnwèi hái méiyǒu érzi de shíhòu, lǎo liú lǎoshī jiù yǐjīng qùshìle.
Bởi vì lúc tôi chưa có con, thầy Liu lớn tuổi đã qua đời rồi,
那我怎么说是老刘老师指导他上了高中,升上大学的呢?
Nà wǒ zěnme shuō shì lǎo liú lǎoshī zhǐdǎo tā shàngle gāozhōng, shēng shàng dàxué de ne?
Vậy sao tôi lại nói là thầy Liu lớn tuổi chỉ đạo con tôi thi đỗ cấp ba, và đại học chứ?
你读了我的文章不就明白了吗?
Nǐ dúle wǒ de wénzhāng bù jiù míngbáile ma?
Bạn đọc xong bài văn này của tôi chẳng phải đã hiểu rồi hay sao?

Hán 6_Bài 17_bài văn 1 _ 再试一次

再试一次
Zài shì yīcì
Thử lại một lần nữa.
大学毕业后,我一心一意想考研究生,可是却没有考上。
Dàxué bìyè hòu, wǒ yīxīnyīyì xiǎng kǎo yánjiūshēng, kěshì què méiyǒu kǎo shàng.
Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi chỉ muốn học cao học, nhưng mà lại thi trượt.
在学习上一向自信的我,经历了这次沉重的打击,对自己再也不敢有太多的自信了。
Zài xuéxí shàng yīxiàng zìxìn de wǒ, jīnglìle zhè cì chénzhòng de dǎjí, duì zìjǐ zài yě bù gǎn yǒu tài duō de zìxìnle.
Tôi về mặt học tập trước giờ rất tự tin, trải qua cái sự đả kích nặng nề lần này, không dám còn tự tin quá nhiều về bản thân mình nữa.
那一段时间,我心情很不好,经常把自己关在屋子里,任何人也不想见,什么话也不愿说。
Nà yīduàn shíjiān, wǒ xīnqíng hěn bù hǎo, jīngcháng bǎ zìjǐ guān zài wūzi lǐ, rènhé rén yě bùxiǎng jiàn, shénme huà yě bù yuàn shuō.
Khoảng thời gian ấy, tâm trạng tôi rất không tốt, thường nhốt mình ở trong nhà, bất cứ ai cũng không muốn gặp, không muốn nói chuyện gì cả.
一天,我去学校领毕业证书时,看见校门旁边贴着一张招聘广告。
Yītiān, wǒ qù xuéxiào lǐng bìyè zhèngshū shí, kànjiàn xiàomén pángbiān tiēzhe yī zhāng zhāopìn guǎnggào.
Một hôm, tôi đến trường nhận bằng tốt nghiệp, thấy cạnh cổng trường có một tờ quảng cáo tuyển dụng.
走近一看,是市内一所中学要招一名英语教师。
Zǒu jìn yī kàn, shì shì nèi yī suǒ zhōngxué yào zhāo yī míng yīngyǔ jiàoshī.
Đến gần nhìn một cái, là một trường trung học ở trong nội thành cần tuyển một giáo viên tiếng anh.
条件是大学毕业以上的学历,英语成绩好,口语好。
Tiáojiàn shì dàxué bìyè yǐshàng de xuélì, yīngyǔ chéngjī hǎo, kǒuyǔ hǎo.
Điều kiện là bằng cấp đại học trở lên, thành tích tiếng Anh phải tốt, khẩu ngữ tốt.
我突然想去试试。
Wǒ túrán xiǎng qù shì shì.
Tôi bỗng dưng muốn đi thử xem thế nào.
大学四年,我的英语成绩一直很好。
Dàxué sì nián, wǒ de yīngyǔ chéngjī yīzhí hěn hǎo.
Bốn năm đại học, thành tích tiếng Anh của tôi luôn rất tốt.
更何况,大学毕业了,该找一份工作了。
Gèng hékuàng, dàxué bìyèle, gāi zhǎo yī fèn gōngzuòle.
Càng huống hồ, đã tốt nghiệp đại học, đến lúc phải đi tìm một công việc rồi.
于是我就去报了名。
Yúshì wǒ jiù qù bàole míng.
Thế là tôi đi đăng ký tuyển dụng ngay.
那时离试讲的日子已经不远了。
Nà shí lí shì jiǎng de rìzi yǐjīng bù yuǎnle.
Lúc bấy giờ cách ngày giảng thử không còn xa nữa.
回家后我便忙着写教案,跟着录音机练口语。
Huí jiā hòu wǒ biàn mángzhe xiě jiào’àn, gēnzhe lùyīnjī liàn kǒuyǔ.
Sau khi về nhà tôi liền bận về việc soạn giáo án, luyện khẩu ngữ theo máy catxet.
到试讲的前一天,我对自己已经有了几分信心。
Dào shì jiǎng de qián yītiān, wǒ duì zìjǐ yǐjīng yǒule jǐ fēn xìnxīn.
Tới một hôm trước khi giảng thử, tôi đã có một chút lòng tin với bản thân.
第二天,校长把我带到教室门口。
Dì èr tiān, xiàozhǎng bǎ wǒ dài dào jiàoshì ménkǒu.
Ngày hôm sau, thầy hiệu trưởng đưa tôi đến cửa lớp.
他对我说:“对你,我们是比较满意的,这是最后一关了。
记住,要沉着。”
Tā duì wǒ shuō:“Duì nǐ, wǒmen shì bǐjiào mǎnyì de, zhè shì zuìhòu yī guānle.
Jì zhù, yào chénzhuo.”
Hiệu trưởng nói với tôi: “ Đối với em, phía nhà trường rất hài lòng, đây đã là cửa ải cuối cùng rồi.
Hãy nhớ lấy, phải bình tĩnh”.
我望了一眼教室,里面坐满了比我只小几岁的学生,见来了新老师,都停下正在做的事,一下子把目光集中到我身上。
Wǒ wàngle yīyǎn jiàoshì, lǐmiàn zuò mǎnle bǐ wǒ zhǐ xiǎo jǐ suì de xuéshēng, jiàn láile xīn lǎoshī, dōu tíng xià zhèngzài zuò de shì, yīxià zi bǎ mùguāng jízhōng dào wǒ shēnshang.
Tôi ngước nhìn phòng học một cái, trong lớp ngồi kín học sinh chỉ kém tôi vài tuổi, thấy có cô giáo mới đến, đều dừng lại việc đang làm, ngay lập tức tập trung ánh mắt vào tôi.
我的心直跳。
Wǒ de xīn zhí tiào.
Tim của tôi cứ đập thình thịch.
我不是个大方的女孩儿,但为这次试讲,我确实已经做了充分的准备。
Wǒ bùshì gè dàfāng de nǚhái ér, dàn wèi zhè cì shì jiǎng, wǒ quèshí yǐjīng zuòle chōngfèn de zhǔnbèi.
Tôi không phải là một người con gái mạnh dạn, nhưng vì buổi giảng thử lần này, tôi thật sự đã có sự chuẩn bị rất tươm tất.
我以为有了准备,就不会太紧张。
Wǒ yǐwéi yǒule zhǔnbèi, jiù bù huì tài jǐnzhāng.
Tôi cứ tưởng đã có sự chuẩn bị, thì sẽ không quá căng thẳng.
走上讲台,我感到自己在出汗。
Zǒu shàng jiǎngtái, wǒ gǎndào zìjǐ zài chū hàn.
Bước lên bục giảng, tôi cảm thấy mình đang toát mồ hôi.
坐在第一排的女班长一声“起立”,让我几乎一下子忘了开场白。
Zuò zài dì yī pái de nǚ bānzhǎng yīshēng “qǐlì”, ràng wǒ jīhū yīxià zi wàngle kāichǎngbái.
Bạn nữ lớp trưởng ngồi ở bàn đầu hô một tiếng “Nghiêm” khiến tôi gần như quên lời nói đầu luôn.
人对自己演惯了的角色,如果有一天突然发生转变,总会或多或少有点儿不适应。
Rén duì zìjǐ yǎn guànle de juésè, rúguǒ yǒu yītiān túrán fāshēng zhuǎnbiàn, zǒng huì huò duō huò shǎo yǒudiǎn er bù shìyìng.
Con người ta một khi đã quen với vai diễn của mình, nếu có một ngày nào đó đột nhiên có sự thay đổi, kiểu gì cũng sẽ dù ít hay nhiều có chút không thích nghi.
我慌忙叫他们坐下。
Wǒ huāngmáng jiào tāmen zuò xià.
Tôi bối rối bảo họ ngồi xuống.
这时我听见几个男孩子的笑声。
Zhè shí wǒ tīngjiàn jǐ gè nán háizi de xiào shēng.
Lúc này tôi nghe thấy tiếng cười của mấy cậu con trai.
一刹那间,昨天背得很熟的教案一下子全忘了。
Yīchànà jiān, zuótiān bèi dé hěn shú de jiào’àn yīxià zi quán wàngle.
Trong giây lát, giáo án thuộc làu làu hôm qua, chợt quên sạch sành sanh.
好几十秒钟,我仍然找不到话说,试着讲了几句,连自己都不知道讲的是什么。
Hǎo jǐ shí miǎo zhōng, wǒ réngrán zhǎo bù dào huàshuō, shì zhuó jiǎngle jǐ jù, lián zìjǐ dōu bù zhīdào jiǎng de shì shénme.
Tận mấy chục giây, tôi vẫn không biết nói gì, thử nói vài câu, ngay cả bản thân mình cũng chẳng biết mình đang nói gì.
我知道这下完了,心中已开始打退堂鼓:与其在讲台上出洋相,还不如趁早给自己找个台阶下去。
Wǒ zhīdào zhè xià wánliǎo, xīnzhōng yǐ kāishǐ dǎtuìtánggǔ: Yǔqí zài jiǎngtái shàng chūyángxiàng, hái bùrú chènzǎo jǐ zìjǐ zhǎo gè táijiē xiàqù.
Tôi biết giờ thì toi rồi, trong lòng đã muốn rút lui: nếu bị bẽ mặt ở trên bục giảng, thì thà rằng sớm tìm cho mình lối thoát còn hơn.
“同学们,我很想教你们,可我太糟糕,我不能耽误了你们…”说完这句话,我抱歉地望了一眼坐在后排正为我担心的校长,想快快地逃出去。
“Tóngxuémen, wǒ hěn xiǎng jiào nǐmen, kě wǒ tài zāogāo, wǒ bùnéng dānwùle nǐmen…” shuō wán zhè jù huà, wǒ bàoqiàn de wàngle yīyǎn zuò zài hòu pái zhèng wèi wǒ dānxīn de xiàozhǎng, xiǎng kuài kuài dì táo chū qù.
“Các em ơi, cô rất muốn dạy các em, nhưng mà cô quá kém, cô không thể làm lỡ các em được” Nói xong câu nói này, Tôi với ánh mắt mang theo ý xin lỗi nhìn thầy hiệu trưởng ngồi ở cuối lớp đang lo cho tôi, muốn nhanh chóng chạy trốn ra ngoài.
“老师,您等等!”坐在第一排的女班长把我叫住。
“Lǎoshī, nín děng děng!” Zuò zài dì yī pái de nǚ bānzhǎng bǎ wǒ jiào zhù.
“Cô ơi, cô chờ một tí! Bạn nữ lớp trưởng ngồi ở ghế đầu gọi tôi lại.
“老师,再试一次,好吗?”
“Lǎoshī, zài shì yīcì, hǎo ma?”
“Cô ơi, cô thử lại một lần nữa, được không?”
“我……我不行。”
“Wǒ……wǒ bùxíng.”
“Cô … cô không được đâu.”
“试一试,老师。您能行的,再来一次,好吗?”
“Shì yī shì, lǎoshī. Nín néng xíng de, zàilái yīcì, hǎo ma?”
“Thử đi, cô ơi. Cô chắc chắn là được, cô thử lại một lần nữa được không?”
后面几个女孩子也说:“老师,您再来一次吧!”
Hòumiàn jǐ gè nǚ háizi yě shuō:“Lǎoshī, nín zàilái yīcì ba!”
Mấy bạn nữ ngồi ở phía sau cũng nói rằng: “Cô ơi, cô thử lại một lần nữa đi!”
这时,教室里很安静,后排那几个笑我的男孩子也坐好了。
Zhè shí, jiàoshì lǐ hěn ānjìng, hòu pái nà jǐ gè xiào wǒ de nán háizi yě zuò hǎole.
Lúc này, trong phòng học rất yên tĩnh, mấy cậu học sinh nam ngồi ở phía sau cười tôi cũng ngồi ngay ngắn lại rồi.
校长也笑着向我点点头。
Xiàozhǎng yě xiàozhe xiàng wǒ diǎndiǎn tóu.
Thầy hiệu trưởng cũng vừa cười vừa gật đầu với tôi.
四十多个纯洁可爱的学生,四十多颗天真的心,四十多双真诚的眼睛,在这个时候,好像一股暖流温暖着我,鼓励着我。
Sìshí duō gè chúnjié kě’ài de xuéshēng, sìshí duō kē tiānzhēn de xīn, sìshí duō shuāng zhēnchéng de yǎnjīng, zài zhège shíhòu, hǎoxiàng yī gǔ nuǎnliú wēnnuǎnzhe wǒ, gǔlìzhe wǒ.
Hơn bốn mươi học sinh dễ thương trong sáng, hơn bốn mươi trái tim ngây thơ, hơn bốn mươi cặp mắt chân thành, trong lúc này dường như có một thứ gì đó làm ấm lòng tôi, động viên tôi.
突然间,我觉得有好多好多的话要对他们说,有好多好多的故事要讲给他们听。
Túrán jiān, wǒ juédé yǒu hǎoduō hǎoduō dehuà yào duì tāmen shuō, yǒu hǎoduō hǎoduō de gùshì yào jiǎng gěi tāmen tīng.
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy có rất nhiều thứ muốn nói với học sinh, có rất nhiều câu chuyện muốn kể cho chúng nghe.
我想我不能离开那个讲台,否则,我也许再也找不着这么理想的机会了。
Wǒ xiǎng wǒ bùnéng líkāi nàgè jiǎngtái, fǒuzé, wǒ yěxǔ zài yě zhǎo bùzháo zhème lǐxiǎng de jīhuìle.
Tôi nghĩ là tôi không thể rời xa bục giảng đó được, nếu không, tôi có lẽ sẽ không bao giờ có được cơ hội như mong muốn này nữa.
我在讲桌前站定,接下来的课,我讲得非常好。
Wǒ zài jiǎng zhuō qián zhàn dìng, jiē xiàlái de kè, wǒ jiǎng dé fēicháng hǎo.
Tôi đứng ở chỗ bàn giáo viên, bài giảng tiếp theo, tôi giảng hay vô cùng.
面对求知若渴而又真诚善良的学生,并没有什么可怕的呀!
Miàn duì qiúzhī ruò kě ér yòu zhēnchéng shànliáng de xuéshēng, bìng méiyǒu shén me kěpà de ya!
Đối mặt với học sinh khát khao kiến thức mà lại còn hiền lành chân thành, đâu có gì mà sợ chứ!
后来,那个女班长成了我最得意的学生和最好的朋友。
Hòulái, nàgè nǚ bānzhǎng chéngle wǒ zuì déyì de xuéshēng hé zuì hǎo de péngyǒu.
Sau đó, bạn nữ lớp trưởng đó đã trở thành học sinh đắc ý nhất của tôi và người bạn thân nhất của tôi.
她对我说:“老师,当初我为竞选班长曾三次登台,第一次一句话都没敢说,第二次脸红心跳,第三次我得到了最热烈的掌声。 每次失败后我都要鼓励自己‘再来一次’。”
Tā duì wǒ shuō:“Lǎoshī, dāngchū wǒ wèi jìngxuǎn bānzhǎng céng sāncì dēngtái, dì yī cì yījù huà dōu méi gǎn shuō, dì èr cì liǎnhóng xīntiào, dì sān cì wǒ dédàole zuì rèliè de zhǎngshēng. Měi cì shībài hòu wǒ dū yào gǔlì zìjǐ ‘zàilái yīcì’.
Cô bé nói với tôi: “Cô ạ, hồi xưa em cũng vì tranh cử lớp trưởng đã từng ba lần lên bục giảng, lần đầu không dám nói một câu nào, lần thứ hai mặt đỏ tía tai, lần thứ ba em đã được tiếng vỗ tay nhiệt liệt nhất. Sau mỗi lần thất bại em đều động viên mình “thử lại một lần nữa.”
有些很简单很朴实的话却能让人一生受益。
Yǒuxiē hěn jiǎndān hěn pǔshí dehuà què néng ràng rén yīshēng shòuyì.
Có một số câu nói rất đơn giản rất chất phác lại có thể khiến cho người ta cả đời thụ ích.
特别是刚刚走向社会时,我们更需要试一次,再试一次。
Tèbié shì gānggāng zǒuxiàng shèhuì shí, wǒmen gèng xūyào shì yīcì, zài shì yīcì.
Nhất là lúc vừa mới bước vào xã hội, chúng ta càng cần phải thử lại một lần nữa.

Hán 6_Bài 16_bài văn 2 _ 从心里说一声“对不起”

从心里说一声“对不起”
Cóng xīnlǐ shuō yīshēng “duìbùqǐ”
Từ trong lòng nói một câu “Xin lỗi”
记得我出国前,一位好心的朋友告诉我:“到了国外,不要轻易说‘对不起’,要是出了交通事故或遇到什么麻烦事, 你先说了 ‘对不起’的话,就说明你自己先承认了错误,警察一定会罚你。”
Jìdé wǒ chūguó qián, yī wèi hǎoxīn de péngyǒu gàosù wǒ:“Dàole guówài, bùyào qīngyì shuō ‘duìbùqǐ’, yàoshi chūle jiāotōng shìgù huò yù dào shénme máfan shì, nǐ xiān shuōle ‘duìbùqǐ’ dehuà, jiù shuōmíng nǐ zìjǐ xiān chéngrènle cuòwù, jǐngchá yīdìng huì fá nǐ.”
Còn nhớ trước khi tôi đi nước ngoài, có một người bạn tốt bụng mách cho tôi biết: “sau khi đến nước ngoài, đừng hơi tí là nói câu “xin lỗi”, nếu như xảy ra tai nạn giao thông, hoặc là gặp chuyện rắc rối gì, bạn nói câu xin lỗi trước, thì chứng tỏ bạn tự mình nhận lỗi trước, cảnh sát nhất định sẽ phạt bạn.
我牢牢记住了她的话。
Wǒ láo láo jì zhùle tā dehuà.
Tôi khắc ghi những lời nói của cô ấy.
去年的一天,我起晚了,可是八点钟有汉语课。
Qùnián de yītiān, wǒ qǐ wǎnle, kěshì bā diǎn zhōng yǒu hànyǔ kè.
Vào một ngày năm ngoái, tôi dậy muộn, nhưng tám giờ là có tiết tiếng Trung.
为了不迟到,我加快了骑车的速度。
Wèi le bù chídào, wǒ jiākuàile qí chē de sùdù.
Vì để không bị muộn, tôi đã phóng nhanh.
在学校附近的十字路口,行人特别多,骑自行车的也很多,人们都争先恐后地赶着去上学、上班,路上非常拥挤。
Zài xuéxiào fùjìn de shízìlù kǒu, xíngrén tèbié duō, qí zìxíngchē de yě hěnduō, rénmen dōu zhēngxiānkǒnghòu de gǎnzhe qù shàngxué, shàngbān, lùshàng fēicháng yǒngjǐ.
Ở ngã tư gần trường, người đi lại rất đông, cũng rất nhiều người đi xe đạp, mọi người đều tranh nhau vội vàng đi học, đi làm, trên đường vô cùng chen chúc.
由于我骑得太快,一下子撞到前面一辆自行车上。
Yóuyú wǒ qí dé tài kuài, yīxià zi zhuàng dào qiánmiàn yī liàng zìxíngchē shàng.
Vì tôi phóng nhanh quá, bất chợt đâm phải một chiếc xe đạp ở phía trước.
骑车的人被我撞倒了。
Qí chē de rén bèi wǒ zhuàng dǎo le.
Người đi xe đạp bị tôi đâm ngã.
我也从自行车上重重地摔了下来,疼得爬不起来了。
Wǒ yě cóng zìxíngchē shàng zhòngzhòng de shuāile xiàlái, téng dé pá bù qǐláile.
Tôi cũng ngã uỵch một cái từ trên xe xuống, ngã đau đến nỗi không ngồi dậy nổi.
说实在的,是我撞倒了他,可是,他不仅不计较,还立即爬起来扶我,并且连连说了两声“对不起!”可是我呢,是不想说还是不敢说?
Shuō shízài de, shì wǒ zhuàng dǎo le tā, kěshì, tā bùjǐn bù jìjiào, hái lìjí pá qǐlái fú wǒ, bìngqiě liánlián shuōle liǎng shēng “duìbùqǐ!” Kěshì wǒ ne, shì bùxiǎng shuō háishì bù gǎn shuō?
Nói thật, là tôi đâm anh ấy ngã, nhưng mà, anh ấy không những không so đo tính toán, còn đứng dậy ngay và đi đến đỡ tôi, hơn nữa còn nói hai tiếng “xin lỗi!” còn tôi thì sao, là không muốn nói hay là không dám nói đây.
总之,我撞倒了别人,却没有说一声“对不起”,反而让别人对我说“对不起”。
Zǒngzhī, wǒ zhuàng dǎo le biérén, què méiyǒu shuō yīshēng “duìbùqǐ”, fǎn’ér ràng biérén duì wǒ shuō “duìbùqǐ”.
Nói tóm lại, tôi đâm phải người ta, nhưng không nói một câu xin lỗi, trái lại còn để cho người ta nói lời xin lỗi với mình,
他把我扶起来后,问我要不要去医院看看。
Tā bǎ wǒ fú qǐlái hòu, wèn wǒ yào bùyào qù yīyuàn kàn kàn.
Sau khi anh ấy đỡ tôi dậy, hỏi tôi có cần đến bệnh viện khám không?
我对他说:“你要去上班吗?你快走吧,我没事,休息一下就好了。”
Wǒ duì tā shuō:“Nǐ yào qù shàngbān ma? Nǐ kuàizǒu ba, wǒ méishì, xiūxí yīxià jiù hǎole.”
Tôi nói với anh ấy: “Anh có phải đi làm không? Anh mau đi đi, em không sao, ngồi nghỉ một chút là được.”
但是他不放心,就在一边陪着我,见我能推着自行车走了,他才放心地跟我分手了。
Dànshì tā bù fàngxīn, jiù zài yībiān péizhe wǒ, jiàn wǒ néng tuīzhe zìxíngchē zǒule, tā cái fàngxīn dì gēn wǒ fēnshǒule.
Nhưng anh ấy không yên tâm, cứ ngồi cạnh bên với tôi, thấy tôi có thể tự dắt xe đi, anh ấy mới yên tâm chia tay với tôi.
虽然这天我迟到了半个多小时,但是我却非常高兴。
Suīrán zhè tiān wǒ chídàole bàn gè duō xiǎoshí, dànshì wǒ què fēicháng gāoxìng.
Tuy ngày hôm ấy tôi bị muộn mất hơn nửa tiếng, nhưng mà tôi lại vô cùng vui sướng.
我偶然遇到的这个人,让我想了很多很多。
Wǒ ǒurán yù dào de zhège rén, ràng wǒ xiǎngle hěnduō hěnduō.
Người mà tôi tình cờ gặp này, đã khiến tôi nghĩ rất nhiều rất nhiều.
他的心地是那么善良,又是那样宽广。
Tā de xīndì shì nàme shànliáng, yòu shì nàyàng kuānguǎng.
Tấm lòng của anh ấy hiền lành thế, lại rộng lượng thế.
每当想起这件事时,我就会从心里说一声:“对不起。”
Měi dāng xiǎngqǐ zhè jiàn shì shí, wǒ jiù huì cóng xīnlǐ shuō yīshēng:“Duìbùqǐ.”
Mỗi khi nhớ tới chuyện này, tôi liền từ trong lòng nói một câu “xin lỗi”

Hán 6_Bài 16_bài văn 1 _ 话说“慢点儿”

话说“慢点儿”
Huàshuō “màn diǎn er”
Bàn về “từ từ thôi”
刚到中国时我才十八岁。
Gāng dào zhōngguó shí wǒ cái shíbā suì.
Lúc vừa mới đến Trung Quốc tôi mới mười tám tuổi.
因为年龄小,什么也不懂。
Yīnwèi niánlíng xiǎo, shénme yě bù dǒng.
Bởi vì tuổi còn nhỏ, không hiểu chuyện gì cả.
我有一个毛病,就是一着急心就跳,而且跳得特别厉害。
Wǒ yǒu yīgè máobìng, jiùshì yī zhāojí xīn jiù tiào, érqiě tiào dé tèbié lìhài.
Tôi có một cái tật xấu, chính là cứ vội thì tim đập thình thịch, mà còn đập rất dữ dội.
我想这个毛病可能跟民族性格有关系吧。
Wǒ xiǎng zhège máobìng kěnéng gēn mínzú xìnggé yǒu guānxì ba.
Tôi nghĩ cái tật xấu này khả năng có liên quan tới tính cách dân tộc.
在我们国家,人们最爱说的话就是:“快点儿,快点儿!”
Zài wǒmen guójiā, rénmen zuì ài shuō dehuà jiùshì:“Kuài diǎn er, kuài diǎn er!”
Ở đất nước chúng tôi, câu nói mọi người thích nói nhất chính là: “Nhanh lên, nhanh lên!”
十八年里,听的最多的也是“快点儿!快点儿!”
Shíbā nián lǐ, tīng de zuìduō de yěshì “kuài diǎn er! Kuài diǎn er!”
Mười tám năm nay, câu nói nghe nhiều nhất vẫn là “nhanh lên! Nhanh lên”
可以说我是在这句话的催促下长大的。
Kěyǐ shuō wǒ shì zài zhè jù huà de cuīcù xià zhǎng dà de.
Có thể nói là tôi lớn lên dưới sự thúc dục của câu nói này.
“快点儿”简直成了我们的口头禅。
“Kuài diǎn er” jiǎnzhí chéngle wǒmen de kǒutóuchán.
“Nhanh lên” thật sự đã trở thành câu cửa miệng của chúng tôi.
可是,到中国不久我就发现,很少有人说快点儿。
Kěshì, dào zhōngguó bùjiǔ wǒ jiù fāxiàn, hěn shǎo yǒurén shuō kuài diǎn er.
Nhưng mà, sang Trung Quốc không được bao lâu thì tôi phát hiện, rất ít khi có người nói nhanh lên.
经常听到的却是相反的一句话:“慢点儿!”我感到奇怪,也不理解。
Jīngcháng tīng dào de què shì xiāngfǎn de yījù huà:“Màn diǎn er!” Wǒ gǎndào qíguài, yě bù lǐjiě.
Câu nói thường hay nghe nhất lại là một câu nói ngược lại: “Từ từ thôi!” tôi cảm thấy kỳ lạ, cũng chẳng hiểu.
我认为“慢” 就是“懒”,于是我想,这儿的人怎么这么“懒”呢?
Wǒ rènwéi “màn” jiùshì “lǎn”, yúshì wǒ xiǎng, zhè’er de rén zěnme zhème “lǎn” ne?
Tôi cho rằng “chậm” chính là “lười”, thế là tôi nghĩ rằng, những người ở đâu sao “lười” thế?
后来发生的一件事改变了我的看法。
Hòulái fāshēng de yī jiàn shì gǎibiànle wǒ de kànfǎ.
Sau đó có một chuyện xảy ra đã thay đổi quan điểm của tôi.
那是去年冬天,清华大学的一个朋友打电话叫我去玩,放下电话我就急急忙忙骑上自行车出发了。
Nà shì qùnián dōngtiān, qīnghuá dàxué de yīgè péngyǒu dǎ diànhuà jiào wǒ qù wán, fàngxià diànhuà wǒ jiù jí ji máng mang qí shàng zìxíngchē chūfāle.
Đó là mùa đông năm ngoái, một người bạn của trường Đại học Thanh Hoa gọi điện rủ tôi đi chơi, sau khi gác máy thì tôi vội vội vàng vàng đạp xe đi luôn.
可是,到清华门口时,车子出了毛病,幸亏附近有一家修车铺,我就把车推了进去。
Kěshì, dào qīnghuá ménkǒu shí, chē zǐ chūle máobìng, xìngkuī fùjìn yǒu yījiā xiū chē pù, wǒ jiù bǎ chē tuīle jìnqù.
Nhưng mà, lúc đến cổng Đại học Thanh Hoa, xe bị hỏng, may mà cạnh đấy có một tiệm sửa xe, tôi liền dắt xe vào trong.
里边的师傅正给一位老人修车。
Lǐbian de shīfù zhèng gěi yī wèi lǎorén xiū chē.
Bác sửa xe ở bên trong đang sửa xe cho một ông cụ.
我一进去就喊:“师傅,我的自行车坏了,快点儿给我修修。”
Wǒ yī jìnqù jiù hǎn:“Shīfù, wǒ de zìxíngchē huàile, kuài diǎn er gěi wǒ xiū xiū.”
Tôi vừa bước vào trong thì nói to lên: “Bác sửa xe ơi, xe đạp của cháu bị hỏng rồi, sửa nhanh cho cháu một chút ạ.”
我一口气说完,修车的师傅只看了我一眼,连话也没说,继续修他的车。
Wǒ yī kǒuqì shuō wán, xiū chē de shīfù zhǐ kànle wǒ yīyǎn, lián huà yě méi shuō, jìxù xiū tā de chē.
Tôi nói một mạch hết câu, bác sửa xe chỉ nhìn tôi một cái, không nói câu nào, vẫn tiếp tục sửa xe.
我看了看手表,时间不早了,急得不得了。
Wǒ kànle kàn shǒubiǎo, shíjiān bù zǎole, jí dé bùdéle.
Tôi nhìn đồng hồ một cái, thời gian không còn sớm nữa, sốt ruột ơi là sốt ruột.
于是就又对师傅说:“你能不能快点儿啊?”
Yúshì jiù yòu duì shīfù shuō:“Nǐ néng bùnéng kuài diǎn er a?”
Thế là lại nói với bác sửa xe: “Bác ơi bác nhanh một chút có được không?”
这一次他回头看着我说:“别着急,你没看见我正在给别人修车吗? 这儿又不是你一个人,总得有个先来后到吧。 你稍等一会儿,我给这位先生修完,马上就给你修。”
Zhè yīcì tā huítóu kànzhe wǒ shuō:“Bié zhāojí, nǐ méi kànjiàn wǒ zhèngzài gěi biérén xiū chē ma? Zhè’er yòu bùshì nǐ yīgè rén, zǒngdé yǒu gè xiānláihòudào ba. Nǐ shāo děng yīhuǐ’er, wǒ gěi zhè wèi xiānshēng xiū wán, mǎshàng jiù gěi nǐ xiū.”
Lần này bác ấy ngoảnh đầu lại nhìn tôi và nói: “Đừng vội, cháu không nhìn thấy bác đang sửa xe cho người khác hay sao? ở đây đâu chỉ là một mình cháu, cũng phải có người trước kẻ sau chứ. Cháu cứ đợi một tí, bác sửa xe cho ông cụ xong, thì sửa ngay cho cháu.”  
我只好等着。
Wǒ zhǐhǎo děngzhe.
Tôi đành phải chờ.
好不容易才等到他给那位先生修完车,擦着手走过来问我:“到底哪儿坏了?”
Hǎobù róngyì cái děngdào tā gěi nà wèi xiānshēng xiū wán chē, cā zheshǒu zǒu guòlái wèn wǒ:“Dàodǐ nǎ’er huàile?”
Khó khăn lắm mới chờ tới lúc bác ấy sửa xe xong cho ông cụ kia, vừa lau tay vừa đi tới hỏi tôi: “Rốt cuộc hỏng ở chỗ nào?”.
我告诉他:“骑不动了。”
Wǒ gàosù tā:“Qí bù dòngle.”
Tôi nói với bác ấy: “Không đi được nữa.”
他看了看车,拿起工具,把车胎扒开,说:“可能是车胎破了。”
Tā kànle kàn chē, ná qǐ gōngjù, bǎ chētāi bā kāi, shuō:“Kěnéng shì chētāi pòle.”
Bác ấy kiểm tra xe một lúc, cầm dụng cụ lên, lấy xăm ra nói là: “ Chắc là bị thủng xăm rồi.”
打了气就把车胎泡在一盆水里, 仔细地检查起来。
Dǎle qì jiù bǎ chētāi pào zài yī pén shuǐ lǐ, zǐxì de jiǎnchá qǐlái.
Bơm xong thì ngâm xăm vào một chậu nước, bắt đầu kiểm tra một cách tỉ mỉ.
他的工作又慢又细,还叹了口气,也许很难找到漏气的小孔吧。
Tā de gōngzuò yòu màn yòu xì, hái tànle kǒuqì, yěxǔ hěn nán zhǎodào lòu qì de xiǎo kǒng ba.
Công việc của bác ấy vừa chậm lại vừa kỹ, còn thở dài một tiếng, có lẽ rất khó tìm được chỗ thủng.
我一看他那慢腾腾的样子,就又着起急来:“你怎么这么慢啊,快点儿不行吗?”
Wǒ yī kàn tā nà màn téngténg de yàngzi, jiù yòuzhe qǐ jí lái:“Nǐ zěnme zhème màn a, kuài diǎn er bùxíng ma?”
Tôi cứ thấy cái cái bộ dạng chậm rì rì của bác ấy, thì lại nôn nóng hẳn lên: “Sao bác chậm thế, nhanh một chút không được ạ?
他停下手中的活儿对我说:“小姐,你已经说了三 遍了。 难道我不愿意快点儿吗?”
Tā tíng xiàshǒu zhōng de huó er duì wǒ shuō:“Xiǎojiě, nǐ yǐjīng shuōle sān biànle. Nándào wǒ bù yuànyì kuài diǎn er ma?”
Bác ấy dừng lại việc đang làm nói với tôi: “Cô ơi, cô đã nói ba lần rồi, Lẽ nào tôi không muốn nhanh chút à?”
我听不明白他说的是什么,只好睡眼看着他。
Wǒ tīng bù míngbái tā shuō de shì shénme, zhǐhǎo shuìyǎn kànzhe tā.
Tôi nghe không hiểu bác ấy nói gì, đành phải chống mắt nhìn bác ấy.
他看我生气了,就面带笑容慢慢地对我说:“你是想让我把你的车修好,还是想让我马马虎虎地快点儿把你打发走?”
Tā kàn wǒ shēngqìle, jiù miàn dài xiàoróng màn man dì duì wǒ shuō:“Nǐ shì xiǎng ràng wǒ bǎ nǐ de chē xiūhǎo, háishì xiǎng ràng wǒ mǎmǎhǔhǔ de kuài diǎn er bǎ nǐ dǎfā zǒu?”
Bác ấy thấy tôi không vui, liền niềm nở từ từ nói với tôi: “ Cháu muốn để tôi sửa xe cho cháu thật tốt, hay là muốn tôi sửa qua loa cho xong việc rồi đuổi cháu đi?”
我这才明白他的意思,不再催他了,还学着北京人的腔调说了句:“好吧,你就慢慢来吧! ”
Wǒ zhè cái míngbái tā de yìsi, bù zài cuī tāle, hái xué zhuó běijīng rén de qiāngdiào shuōle jù:“Hǎo ba, nǐ jiù màn man lái ba! ”
Lúc này tôi mới hiểu ý của bác ấy, không dục bác ấy nữa, còn pha giọng người Bắc Kinh nói một câu: “Thôi được rồi, bác cừ từ từ sửa đi!”.
他把车胎修好了以后,又仔细检查了一下其他部件,然后才满意地对我说:“好了!”
Tā bǎ chētāi xiūhǎole yǐhòu, yòu zǐxì jiǎnchále yīxià qítā bùjiàn, ránhòu cái mǎnyì dì duì wǒ shuō:“Hǎole!”
Sau khi bác ấy vá xong xăm xe, lại kiểm tra kỹ những linh kiện khác, sau đó mới hài lòng nói với tôi: “ Xong rồi!”
当我走出他的车铺时,他又说:“外边下雪了,路滑,要慢点儿骑!”看到一地白雪,听了师傅这句话,我心里立刻感到暖暖的。
Dāng wǒ zǒuchū tā de chē pù shí, tā yòu shuō:“Wàibian xià xuěle, lù huá, yào màn diǎn er qí!” Kàn dào yī dì báixuě, tīngle shīfù zhè jù huà, wǒ xīnlǐ lìkè gǎndào nuǎn nuǎn de.
Lúc tôi đi ra ngoài tiệm sửa xe của bác ấy, bác ấy lại nói: “Ngoài trời đang có tuyết rơi, đường trơn, phải đi từ từ thôi!” nhìn thấy khắp nơi toàn là tuyết, nghe câu nói của bác ấy, trong lòng tôi tức thì cảm thấy ấm áp.
后来,我还经常听到“慢点儿走!”,“慢点儿来,别着急!”等亲切的话语。
Hòulái, wǒ hái jīngcháng tīng dào “màn diǎn er zǒu!”,“Màn diǎn er lái, bié zhāojí!” Děng qīnqiè de huàyǔ
Sau đó, tôi còn thường hay nghe thấy “Đi từ từ thôi!”, “Làm từ từ thôi, đừng vội!” vân vân những lời nói gần gũi.
我终于明白了,这哪里有教人偷懒的意思呢?明明是亲人般的嘱咐啊!
Wǒ zhōngyú míngbáile, zhè nǎ li yǒu jiào rén tōulǎn de yìsi ne? Míngmíng shì qīnrén bān de zhǔfù a!
Cuối cùng tôi đã hiểu, điều này làm gì có ý là nói người ta lười biếng chứ? Rõ ràng là những lời dặn dò như người nhà vậy.
一句“慢点儿”,不仅有做事要认真负责的意思,同时还包含着对别人由衷地关心和爱护。
Yījù “màn diǎn er”, bùjǐn yǒu zuòshì yào rènzhēn fùzé de yìsi, tóngshí hái bāohánzhe duì biérén yóuzhōng de guānxīn hé àihù.
Một câu nói “từ từ thôi”, không chỉ là có ý làm việc phải nghiêm túc có trách nhiệm, đồng thời còn bao gồm quan tâm và yêu thương người khác tận đáy lòng.

Hán 6_Bài 15_bài văn 2 _ 北国行

北国行
Běiguó xíng
chuyến đi miền Băc của tổ quốc.
元旦那天,
Yuándàn nèitiān,
Hôm tết nguyên đán
我跟几个同学一起坐火车去哈尔滨看冰灯。
Wǒ gēn jǐ gè tóngxué yīqǐ zuò huǒchē qù hā’ěrbīn kàn bīngdēng.
Tôi cùng mấy đứa bạn học cùng nhau đi tàu đến Cáp Nhĩ Tân xem băng đăng..
刚到车站门口,
Gāng dào chēzhàn ménkǒu,
vừa mới ra khỏi sân ga
就看见很多接站的人,
Jiù kànjiàn hěnduō jiēzhàn de rén,
thì nhìn thấy rất nhiều người đi đón khách.
一出车站迎面就是几座大冰雕,
Yī chū chēzhàn yíngmiàn jiùshì jǐ zuò dà bīngdiāo,
Vừa mới ra khỏi sân ga ngay trước mặt chính là mấy tảng băng điêu lớn.
像巨石一样立在广场上。
Xiàng jùshí yīyàng lì zài guǎngchǎng shàng.
Như một tảng đá to đứng sừng sững ở Quảng trường.
从来没有见过冰雪的我,
Cónglái méiyǒu jiànguò bīngxuě de wǒ,
Tôi trước giờ chưa thấy băng tuyết bao giờ.
一下子激动和兴奋起来。
Yīxià zi jīdòng hé xīngfèn qǐlái.
Tức thì xúc động và hưng phấn hẳn lên.
忽然想想了一句诗:
Hūrán xiǎng xiǎngle yījù shī:
Bỗng dưng nhớ tới một vần thơ.
“北国风光,千里冰封,万里雪飘。”
“Běiguó fēngguāng, qiānlǐ bīng fēng, wànlǐ xuě piāo.”
Quang cảnh miền Bắc của tổ quốc, ngàn dặm băng tuyết phong tỏa, tuyết rơi khắp nơi.
眼前的情景跟这句诗说的完全一样。
Yǎnqián de qíngjǐng gēn zhè jù shī shuō de wánquán yīyàng.
Khung cảnh trước mắt y như là vần thơ này.
第二天,
Dì èr tiān,
Ngày hôm sau.
我们来到了松花江上。
Wǒmen lái dàole sōnghuā jiāngshàng.
Chúng tôi đến sông Tùng Hoa.
虽然江面上结着厚厚的冰,
Suīrán jiāngmiàn shàng jiézhe hòu hòu de bīng,
Mặc dù trên mặt sông đã đóng băng dày đặc.
天很冷,
Tiān hěn lěng,
thời tiết rất lạnh.
但是冰上却有那么多快乐的游人。
Dànshì bīng shàng què yǒu nàme duō kuàilè de yóurén.
Nhưng trên băng lại có rất nhiều du khách vui vẻ như vậy.
我们看到一些艺术家正在江上做冰雕,
Wǒmen kàn dào yīxiē yìshùjiā zhèngzài jiāngshàng zuò bīngdiāo,
Chúng tôi thấy một số nghệ sĩ đang điêu khắc ở trên mặt băng.
不少男女青年在自由自在地滑冰,
Bù shào nánnǚ qīngnián zài zìyóu zìzài dì huábīng,
có không ít thanh niên nam nữ đang rất tự do thoải mái trượt trên mặt băng.
有的人坐着狗拉的大雪橇飞跑,
Yǒu de rén zuòzhe gǒu lā de dà xuěqiāo fēi pǎo,
có một số người đi xe trượt tuyết do chó kéo chạy như bay trên tuyết.
有意思极了。
Yǒuyìsi jíle.
Cực kỳ là thú vị.
我和几个朋友被这一场面所吸引,
Wǒ hé jǐ gè péngyǒu bèi zhè yī chǎngmiàn suǒ xīyǐn,
Tôi và mấy người bạn bị thu hút bởi khung cảnh này.
也坐上大雪橇,
Yě zuò shàng dà xuěqiāo,
Cũng đi xe trượt tuyết.
在松花江上跑了起来。
Zài sōnghuā jiāngshàng pǎole qǐlái.
Cũng bắt đầu chạy trên dòng sông Tùng Giang.
当然,最漂亮的还数冰灯。
Dāngrán, zuì piàoliang de hái shù bīngdēng.
Đương nhiên, đẹp nhất phải kể đến băng đăng.
各种各样的颜色,各种各样的造型。
Gè zhǒng gè yàng de yánsè, gè zhǒng gè yàng de zàoxíng.
Màu sắc muôn vàn muôn vẻ, đủ các loại hình dáng.
走进冰灯展览厅,
Zǒu jìn bīngdēng zhǎnlǎn tīng,
Bước vào sảnh băng đăng.
就好像走进了一个童话世界。
Jiù hǎoxiàng zǒu jìnle yīgè tónghuà shìjiè.
thì cứ như là bước vào một thế giới cổ tích.
我无法形容它的美丽,
Wǒ wúfǎ xíngróng tā dì měilì,
Tôi không tài nào mô tả được vẻ đẹp của nó.
要是你感兴趣,
Yàoshi nǐ gǎn xìngqù,
Nếu bạn thấy thích.
最好亲自去看看。
Zuì hǎo qīnzì qù kàn kàn.
Tốt nhất là đích thân đến đó thăm quan một chuyến.

Hán 6_Bài 15_bài văn 1 _ 受伤以后

第十五课:受伤以后
Dì shíwǔ kè: Shòushāng yǐhòu
Sau khi bị thương.
朋友常常向我提出这样的问题:
Péngyǒu chángcháng xiàng wǒ tíchū zhèyàng de wèntí:
Bạn bè thường hay nêu ra câu hỏi này với tôi.
你这次去中国留学的体会是什么?
Nǐ zhè cì qù zhōngguó liúxué de tǐhuì shì shénme?
Trải nghiệm của bạn lần này đi du học Trung Quốc là gì.
你对那里的印象如何?
Nǐ duì nàlǐ de yìnxiàng rúhé?
Ấn tượng của bạn về nơi đó thế nào?
每当他们这样问我的时候,
Měi dāng tāmen zhèyàng wèn wǒ de shíhòu,
Mỗi khi họ hỏi tôi như vậy.
我都会毫不犹豫地回答:
Wǒ dūhuì háo bù yóuyù de huídá:
Tôi đều trả lời không một chút do dự.
这次留学给我的印象很深刻,
Zhè cì liúxué gěi wǒ de yìnxiàng hěn shēnkè,
Ấn tượng của chuyến du học lần này để lại cho tôi rất sâu sắc.
也给我留下了很多美好的记忆。
Yě gěi wǒ liú xiàle hěnduō měihǎo de jìyì.
Cũng để lại rất nhiều kỷ niệm đẹp cho tôi.
从我接触到的人来看,
Cóng wǒ jiēchù dào de rén lái kàn,
Từ góc độ những người mà tôi tiếp xúc mà nói.
他们大都心地善良、
Tāmen dàdū xīndì shànliáng,
họ đa phần đều tấm lòng lương thiện.
待人热情,也乐于助人。
Dàirén rèqíng, yě lèyú zhùrén.
đối xử với người khác rất nhiệt tình, vui vẻ giúp người.
当然,世界上任何国家和地区的人都有好坏之分。
Dāngrán, shìjiè shàng rènhé guójiā hé dìqū de rén dōu yǒu hǎo huài zhī fēn.
Đương nhiên, người của bất cứ khu vực và quốc gia nào trên thế giới này đều có người tốt người xấu.
我不敢说这里的人个个都好,
Wǒ bù gǎn shuō zhèlǐ de rén gè gè dōu hǎo,
Tôi không dám nói mọi người ở đây ai cũng tốt.
但我想向大家讲一讲我的亲身经历,
Dàn wǒ xiǎng xiàng dàjiā jiǎng yī jiǎng wǒ de qīnshēn jīnglì,
Nhưng tôi muốn kể với mọi người một chút cái sự từng trải của tôi.
也许你会从中了解到他们是些什么样的人吧。
Yěxǔ nǐ huì cóngzhōng liǎojiě dào tāmen shì xiē shénme yàng de rén ba.
Có lẽ bạn sẽ thông qua câu chuyện này hiểu họ là những người sống như thế nào?
我这个人向来不爱运动,
Wǒ zhège rén xiànglái bu ài yùndòng,
Con người tôi xưa nay không thích vận động.
而且在国内时从来没骑自行车上过街,
Érqiě zài guónèi shí cónglái méi qí zìxíngchē shàng guòjiē,
Hơn nữa hồi ở trong nước tôi cũng chưa bao giờ đạp xe ra phố.
所以来中国后,
Suǒyǐ lái zhōngguó hòu,
Cho nên sau khi đến Trung Quốc
每次骑车上街我都提心吊胆的。
Měi cì qí chē shàng jiē wǒ dū tíxīndiàodǎn de.
mỗi lần đạp xe ra phố tôi đều nơm nớp lo sợ.
这一次真的出事了。
Zhè yīcì zhēn de chūshìle.
lần đó thật sự đã xảy ra chuyện.
那天,我骑车去展览馆。
Nèitiān, wǒ qí chē qù zhǎnlǎn guǎn.
Hôm đấy, tôi đạp xe đến nhà triển lãm.
回来的路上,
Huílái de lùshàng,
Trên đường về.
要过一条铁路。
Yàoguò yītiáo tiělù.
phải đi qua đường tàu.
不知怎么搞的,
Bùzhī zěnme gǎo de,
chẳng hiểu đi kiểu gì.
车轮夹在了铁道中间,
Chēlún jiā zàile tiědào zhōngjiān,
Cái bánh xe bị kẹt ở giữa đường tàu.
一下子把我摔倒了。
Yīxià zi bǎ wǒ shuāi dǎo le.
Bất chợt làm tôi bị ngã.
还没有意识到自己出了什么事,
Hái méiyǒu yìshí dào zìjǐ chūle shénme shì,
Còn chưa kịp phản xạ mình đã xảy ra chuyện gì.
人们就马上把我小心地扶起来,
Rénmen jiù mǎshàng bǎ wǒ xiǎoxīn dì fú qǐlái,
Mọi người ngay lập tức cẩn thận đỡ tôi dậy.
有人还拦了一辆车,
Yǒurén hái lánle yī liàng chē,
Có người còn chặn một chiếc xe.
要送我去医院,
Yào sòng wǒ qù yīyuàn,
Phải đưa tôi đến bệnh viện.
大家七手八脚地把我扶上了车。
Dàjiā qī shǒu bā jiǎo de bǎ wǒ fú shàngle chē.
Mọi người xúm vào đỡ tôi lên xe.
司机也是个热心人,
Sījī yěshì gè rèxīn rén,
Lái xe là một người nhiệt tình.
一 路上不时回头看看我,
Yī lùshàng bùshí huítóu kàn kàn wǒ,
Trên đường đi thỉnh thoảng còn ngoảnh đầu lại nhìn tôi một cái.
还不停地安慰我。
Hái bù tíng de ānwèi wǒ.
Còn liên tục an ủi tôi.
到了医院,
Dàole yīyuàn,
Sau khi đến bệnh viện.
他小心翼翼地把我背到急诊室。
Tā xiǎoxīnyìyì de bǎ wǒ bèi dào jízhěn shì.
Anh ấy rất cẩn thận cõng tôi đến phòng cấp cứu.
大夫马上给我检查治疗。
Dàfū mǎshàng gěi wǒ jiǎnchá zhìliáo.
Bác sĩ khám và chữa trị cho tôi ngay.
检查以后,
Jiǎnchá yǐhòu,
Sau khi khám xong.
大夫说我小腿骨折了,
Dàfū shuō wǒ xiǎotuǐ gǔzhéle,
Bác sĩ nói tôi bị gãy chân rồi.
结果,给我的小腿打上了石膏。
Jiéguǒ, gěi wǒ de xiǎotuǐ dǎshàngle shígāo.
Cuối cùng, bó bột cho tôi.
带着痛苦的心情,
Dàizhe tòngkǔ de xīnqíng,
Đem theo tâm trạng buồn bã.
我坐车回到学校。
Wǒ zuòchē huí dào xuéxiào.
Tôi đi xe buýt về trường.
老师和同学们听说后都来看我。
Lǎoshī hé tóngxuémen tīng shuō hòu dōu lái kàn wǒ.
Thầy cô và các bạn sau khi nghe nói đều đến thăm tôi.
我们班的林老师见我躺在床上不能动,
Wǒmen bān de lín lǎoshī jiàn wǒ tǎng zài chuángshàng bùnéng dòng,
Cô giáo Lâm của lớp chúng tôi thấy tôi nằm trên giường không cử động được.
就非要我住到她家去不可。
Jiù fēi yào wǒ zhù dào tā jiā qù bùkě.
thì bắt tôi phải đến nhà cô ấy ở mới được.
起初我怕给老师添麻烦,
Qǐchū wǒ pà gěi lǎoshī tiān máfan,
Lúc ban đầu tôi cứ ngại làm phiền cô giáo.
不肯去。
Bù kěn qù.
Không chịu đi.
但老师说:
Dàn lǎoshī shuō:
Nhưng cô giáo nói:
“千万别客气,
“Qiān wàn bié kèqì,
Em đừng bao giờ khách sáo.
你就把老师家当做自己的家吧。”
Nǐ jiù bǎ lǎoshī jiā dàngzuò zìjǐ de jiā ba.”
Em cứ coi nhà cô như nhà mình vậy.
由于老师再三劝说,
Yóuyú lǎoshī zàisān quànshuō,
vì cô giáo nhiều lần khuyên tôi.
我只好答应了。
Wǒ zhǐhǎo dāyìngle.
Tôi đành phải nhận lời.
住在老师家里,
Zhù zài lǎoshī jiālǐ,
ở nhà cô giáo.
她像对自己的女儿一样精心照顾我,
Tā xiàng duì zìjǐ de nǚ’ér yīyàng jīngxīn zhàogù wǒ,
Cô ấy dốc lòng chăm sóc tôi như là chăm sóc con gái mình vậy.
送吃送喝,
Sòng chī sòng hē,
Cơm bưng, nước rót.
直到我伤好能自由活动。
Zhídào wǒ shāng hǎo néng zìyóu huódòng.
Cho đến khi tôi vết thương lành lại có thể đi lại tự do.
每当回忆起这段往事,
Měi dāng huíyì qǐ zhè duàn wǎngshì,
Mỗi lần nghĩ về chuyện cũ này.
我都由衷地感谢那些叫不出姓名的人。
Wǒ dū yóuzhōng de gǎnxiè nàxiē jiào bù chū xìngmíng de rén.
Tôi đều từ trong đáy lòng biết ơn những người không biết tên họ là gì?
他们乐于助人的精神使我难忘。
Tāmen lèyú zhùrén de jīngshén shǐ wǒ nánwàng.
Tinh thần vui vẻ giúp người của họ khiến tôi khó quên.

Hán 6_Bài 14_bài văn 6 _ “脑汁”怎么绞

“脑汁”怎么绞
“Nǎozhī” zěnme jiǎo
Óc làm sao mà vắt được
外国留学生的汉语考卷中,
Wàiguó liúxuéshēng de hànyǔ kǎojuàn zhōng,
Trong những bài thi tiếng Trung của du học sinh người nước ngoài
有一道填空题:
Yǒu yīdào tiánkòng tí:
có một bài thi điền vào chỗ trống
“他为解决这个问题,可真是绞尽 …汁。”
“Tā wèi jiějué zhège wèntí, kě zhēnshi jiǎo jǐn … Zhī.”
“anh ấy để giải quyết được vấn đề này quả thật là đã 绞尽 …汁。
考卷收上来以后,
Kǎojuàn shōu shànglái yǐhòu,
Sau khi thu bài thi về.
老师发现,
Lǎoshī fāxiàn,
thầy giáo phát hiện.
学生们的答案各种各样,
Xuéshēngmen de dá’àn gè zhǒng gè yàng,
Đáp án của học sinh có đủ các loại.
但是没有一个是正确的。
Dànshì méiyǒu yīgè shì zhèngquè de.
Nhưng mà không có cái đáp án nào đúng cả
有填“绞尽墨汁”的,
Yǒu tián “jiǎo jǐn mòzhī” de,
Có người thì điền là vắt sách nước mực.
也有写“绞尽乳汁”的,
Yěyǒu xiě “jiǎo jǐn rǔzhī” de,
có bạn lại viết là vắt hết nước sữa
有的说是“绞尽果汁”,
Yǒu de shuō shì “jiǎo jǐn guǒzhī”,
Có bạn thì nói là vắt kiệt nước hoa quả.
还有人填的是“绞尽橘汁”。
Hái yǒurén tián de shì “jiǎo jǐn jú zhī”.
Còn một số bạn điền là “vắt cạn nước quýt”
老师在讲评时说:
Lǎoshī zài jiǎngpíng shí shuō:
Lúc thầy giáo nhận xét nói:
“同学们为了答这道题,
“Tóngxuémen wèile dá zhè dào tí,
Các em cũng là vì trả lời đề này,
可真是绞尽了脑汁,
Kě zhēnshi jiǎo jǐnle nǎozhī,
thật sự đã vắt óc suy nghĩ rồi.
但是,没有一个人能写出‘绞尽脑汁’的。”
Dànshì, méiyǒu yīgè rén néng xiě chū ‘jiǎo jǐn nǎozhī’ de.”
Nhưng mà, không có một bạn nào viết ra được cái từ ‘绞尽脑汁’
学生们不满老师的讲评,
Xuéshēngmen bùmǎn lǎoshī de jiǎngpíng,
Các bạn học không hài lòng về lời nhận xét của thầy giáo.
问:“老师,脑汁怎么能绞呢?”
Wèn:“Lǎoshī, nǎozhī zěnme néng jiǎo ne?”
Hỏi: Thầy ơi, óc làm sao có thể vắt được ạ?